Thursday, September 15, 2016

Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân


(1931-2002)
SQ: 51/600.003
Sinh ngày 12-8-1931 tại Xả Bình Hòa, Tỉnh Gia Định

  • 1951: SVSQ Khóa 1 Lê Văn Duyệt Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức
  • 1952: Thiếu Úy Trung Đoàn 17 Bộ Binh
    • Tháng 10 Tuyển chọn vào Không Quân
    • Tháng 12 Du học khóa Hoa Tiêu Vận Tải DC-3 trường Không Quân Marrakech Maroc
  • 1953: Theo học khóa MD-312 căn cứ Không Quân Avord, Pháp
  • 1954: Tu Nghiệp MD-315 Oanh tạc
    • Tháng 5 Thụ huấn DC-4 tại Orleans, Pháp
    • Tháng 10 Hoa tiêu vận tải Loulouse, Pháp
  • 1955: Vận chuyển đồng bào Di Cư từ Bắc vào Sàigon
  • 1956: Tu nghiệp DC-4 vận tải cơ căn cứ KQ Hickam Field. Honolulu Hoa Kỳ
  • 1957: Thiếu Tá hướng dẫn phái đoàn Không Quân VN thăm viếng Hoa Kỳ
  • 1959: Thăng cấp Trung Tá tạm thời
  • 1961: Du học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Fort Leavenworth, Kansas Hoa Kỳ. Tháng 5 Thăng cấp Trung Tá thực thụ
  • 1964: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang.
  • 1965: Tư Lệnh Không Đoàn 33 Chiến thuật Tân Sơn Nhất
  • 1966: Chánh Võ Phòng Phủ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương
  • 1969-1970: Đại Tá theo học khóa Cao Đẳng Quốc Phòng
  • 1970: Chuyên Viên nghiên cứu tại Bộ Quốc Phòng
  • 1971: Du học khóa Quản Trị Quốc Phòng tại Navy Post Graduate School Monterey, California Hoa Kỳ
  • 1972: Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 6 Không Quân tân lập Pleiku
  • 1973: 16-12 Tuyên Dương Công Trạng trước Quân Đội Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu
  • 1974: Vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức
  • 1975-1988:
    • 15-3 Di tản chiến thuật SD6 KQ từ Pleiku về Phan Rang
    • 16-4 Phan Rang thất thủ bị Cộng Quân bắt lúc 9:00 giờ đêm
    • 22-4 Giải ra Bắc và giam giử tại Sơn Tây
    • Trải qua 17 năm tù tại các trại Yên Bái, Hoàng Liên Sơn 1976
    • Hà Tây, Hà Sơn Bình 1978
    • Nam Hà, Hà Nam Ninh 1983
    • Hàm Tân Z30 1988
  • 1992: Ngày 11-2 ra tù cộng sản sau 17 năm
  • 1993: Định cư tại Garden Grove, California, Hoa Kỳ
  • 2002: Mãn phần lúc 6:00 chiều ngày 30-11 Hưởng thọ 71 tuổi
    • Tang Lễ cữ hành rất trọng thể với Phủ Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa
    • 8-12-2002 lúc 3 giờ chiều hỏa táng có 3 phi cơ Quan Sát Cessna bay lượn để chào tiễn biệt lần cuối cùng.

Huy Chương:

  • Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân chương
  • Không Lực Huân Chương
  • Phi Dũng Bội Tinh với cánh chim Vàng và Bạc
  • Anh Dũng Bội Tinh Nhành Dương Liễum Ngôi Sao Vàng, Ngôi Sao Bạc và Ngôi Sao Đồng cùng nhiều huy chương Quân Sự, Dân Sự Việt nam và Đồng Minh

Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang

Một Vì Sao Lặn - Hai Điều Trăn Trối


Hạnh Nhơn

NV, Dec 17, 2002

Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã ra người thiên cổ, nhưng sự qua đời của ông đã để lại cho chúng ta một ấn tượng và những hình ảnh bi hùng của một người lính cho tới chết vẫn trung thành với chất lính, vốn là những con người lúc chiến đấu trận mạc thì qủa cảm, tận tụy và trách nhiệm, khi sa cơ vẫn bảo vệ nhân cách của mình bằng cái chết. Sau đây là một bài viết về một vì sao đã lặn, nhưng chắc chắn sẽ cho chúng ta một tấm gương và niềm hãnh diện:

Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã từ trần trong một ngày ảm đạm mùa đông năm 2002. Hội Ái Hữu Không Quân Miền Trung California đứng ra điều hành tang lễ. Từ trước đến nay chưa có đám tang nào có ý nghĩa tuyệt vời như thế. Lễ nghi quân cách trang trọng để tưởng niệm một vị tướng dầy đủ phong cách, thanh liêm, ôn hòa, đôn hậu, dũng cảm và tài năng. Việc tổ chức tang lễ này cho Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang người ta nhận thấy là vì tình thương yêu người niên trưởng đã một thời tận tụy hy sinh cho quê hương, cho chiến hữu hơn là tổ chức chiếu lệ, với hình thức phải có. Những anh chị em thuộc quân chủng Không Quân khắp nơi đến thăm viếng không khác gì một buổi họp đại hội Không Quân.

Nhiều vị tướng lãnh và các quân nhân các cấp thuộc các quân, binh chủng không hẹn mà đến tham dự đám tang trong tinh thần huynh đệ chi binh rất đông đảọ ba ngày ở nhà quàn, cứ mười lăm phút là đổi phiên hai sĩ quan Không Quân trong lễ phục đứng gác cạnh quan tài, làm chúng ta nhớ lại quân phong, quân kỷ thời trước 1975.

Chiều ngày thứ sáu (6-12-02) lễ phủ cờ VNCH được tổ chức rất trang nghiêm. Chuẩn Tướng Võ Dinh, nguyên Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân, đứng chủ lễ. Tướng Võ Dinh cũng là một vị tướng đầy đủ tư cách, uy nghi tương xứng với vị tướng quá cố. Sau đó là những lời phát biểu của các vị đại diện không ngớt lời ca ngợi và đầy thương tiếc... Chủ nhật 8-12-02 cử hành tang lễ. Khi đưa tiễn từ nhà quàn qua nhà thiêu, trên khung trời trong xanh có nắng ấm, ba chiếc máy bay cessna được điều động quần quanh vùng tang lễ làm ai cũng xúc động và lấy làm vinh dự. Dưới đất, các sĩ quan Không quân trong lễ phục đi hai bên quan tài và trên 500 người thuộc QLVNCH cùng đồng hương im lặng đưa tiễn trong ngậm ngùi, thương kính.

Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã yên nghỉ, không còn đau đớn xác thân, vong linh đã bay xa lên cõi vĩnh hằng, thanh bình và an lạc. Đặc biệt hơn hết, ông đã để lại hai điều trăng trối làm chúng ta phải động tâm suy gẫm.

Điều Trăn Trối Thứ Nhất

thứ nhất là theo nguyện vọng của Ông, tất cả số tiền phúng điếu sẽ được giúp cho thương phế binh VNCH thiếu may mắn còn ở lại Việt Nam. Một vị tướng có tiếng là thương lính, cùng sống với lính. Nhất là trong cuối trận chiến tháng 4 năm 1975, ông đã cương quyết ở lại chiến đấu cùng anh em, cuối cùng bị sa lưới, lọt vào ổ phục kích của đối phương, để chịu đựng 17 năm trong lao tù Cộng Sản.

Trong vòng lao lý, Tướng Phạm Ngọc Sang vẫn giữ đúng nhân cách làm cho các anh em tù nhân khác đều nể phục. Những năm sau cùng, vì sức khỏe quá hao mòn, ông phải mang những chứng bệnh trầm khạ cho đến khi ra khỏi tù, ông sống rất đạm bạc trong sự tận tình chăm sóc của Chuẩn Tướng phu nhân cùng các con hiếu thảọ đến Hoa Kỳ năm 1993, dù phải chống chỏi với bệnh hoạn, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang cùng phu nhân vẫn gần gũi với đàn em, bạn bè, không bỏ một buổi mời họp nào của anh em Không Quân, cũng như thường tham dự những ngày lễ lớn. Giai đoạn cuối đời, khi biết mình sắp từ giã cõi trần, ông đã dặn dò gia đình rằng: «Tất cả tiền phúng điếu dành để giúp cho các thương phế binh VNCH đang sống khó khăn ở quê nhà». Đáp ứng với thiện tâm của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, mọi người đã đóng góp một số tiền đáng kể, lên đến $10,040 (Mười ngàn không trăm bốn mươi mỹ kim). Số tiền đã trao cho Hội H.Ọ. Cứu-Trợ Thương Phế Binh & Cô Nhi Quả Phụ VNCH để làm theo nguyện vọng của vị Tướng nhân hậụ. Số tiền trên có thể cứu giúp cho gần 200 gia đình thương phế binh nghèo khó trong dịp Tết Quý Mùi 2003 năm naỵ.

Chuẩn Tướng Sang, cho đến chết vẫn còn tưởng nhớ đến các chiến hữu đàn em trước kia đã hi sinh chiến đấu chống Cộng quân để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh cho đồng bào được sống trong no ấm, an lành, mà nay phải chịu cảnh đui mù, què cụt đang lầm than, cơ cực trải qua 28 năm trời nay trong nước. Nghĩa cử đó làm mọi người khâm phục.

Điều Trăn Trối Thứ Hai

Càng ý nghĩa hơn nữạ gia tài của Chuẩn Tướng Sang để lại chỉ tóm gọn trong một lời kêu gọi:

"Mọi người hãy thương yêu nhau."

Chỉ có sáu chữ thôi nhưng đó là một lời kêu gọi thống thiết!

Hãy yêu thương nhau như ông đã yêu thương tất cả mọi người bằng một tình thương chân thật. Chúng ta đáp ứng làm sao với lời trăng trối đó? Hãy tìm ra một phương cách dung hòa để cuộc sống của chúng ta được vui vẻ hơn, tốt đẹp hơn. Có lẽ Chuẩn Tướng Sang có nghe hoặc cảm thấy một vài bất đồng nào đó trong chúng ta chăng? Và ông đã đau lòng, ước ao được hàn gắn lại chăng? Nhung sức tàn, lực tận, ông không làm gì được nữa, chỉ biết lấy cái chết của mình để gởi thông điệp đó cho chúng ta Rằng, còn lại ở trên cõi đời này, hãy xích lại gần nhau, thương yêu nhau nhiều hơn, tha thứ cho nhau nhiều hơn, tha thứ cho nhau để san bằng những tị hiềm, dị biệt. Rồi từ đó, chúng ta sẽ tìm ra nhiều lối cư xử khác nữạ Nơi đất nước thứ hai này, xin hãy giữ gìn thể thống của dân tộc Việt Nam.

Hãy làm gương cho những thế hệ tiếp nốị Tránh những việc làm không xứng đáng và những lời nói gieo đau khổ cho nhaụ «Một sự nhịn, chín sự lành». Nếu thương mình, thương người thì không làm hạ nhân phẩm của mình của người khác. Hãy bắt tay nhau làm lại nếu có những sai lầm, góp ý với nhau bằng những lời lẽ ôn hòa, tử tế, thanh nhã. Cần nhất là không cố chấp, không vì khác chính kiến mà khích bác nhau. Trong tinh thần hỉ xã, hãy tìm đến nhau xuề xòa, bắt tay nhau với nụ cười chân thật, tâm hồn chúng ta sẽ nhẹ nhàng, thanh thản.

Chúng ta sẽ tạo cho đời bộ mặt dễ thương hơn, tốt đẹp, tươi mát hơn. Cộng đồng nhờ đó sẽ đoàn kết hơn. Tinh thần đoàn kết chúng ta vốn sẵn có, điển hình là trong tổ chức đại nhạc hội gây quỷ sậy dựng tượng đài Việt Mỹ vừa quạ Hàng hàng,lớp lớp đồng bào Việt Nam quy tụ lại để góp công, góp của ngoài ước lượng nhu cầu cần đến cho một đại cuộc đầy chính nghĩạ. Chỉ cần thiếu, cần bổ túc thêm một tình yêu thương giữa chúng ta, yêu thương và hỉ xã. « Hãy thương lấy nhau, hãy đùm bọc nhau». Tinh thần này do tổ tiên, cha ông ta để lạị. Muốn xây dựng một đất nước Việt Nam phú cường trong tự do, dân chủ , trước tiên chúng ta phải thương yêu, đùm bọc nhau đã.

Tinh thần Phạm Ngọc Sang, lời di chúc của một đàn anh khả kính, đạo đức là một vang vọng cấp thiết trong mọi người con dân Việt hôm nay. Trong một tan hoang, điêu tàn ngôi nhà của Mẹ, xin những đứa con trong dòng máu Tiên Rồng hãy mau mau hồi tỉnh. Chúng ta, những người con ly hương vì Cộng Sản tham tàn, xin hãy ngồi lại bên nhau bên niềm thương yêu, tha thứ và nhất quyết phải làm một điều gì cho Tổ Quốc thôi điêu linh, cho dân tộc thôi đọa dày, cho quê hương thôi nhục nhằn nghèo khó.

Hạnh Nhơn

Về Với Không Gian Thân Tình

Đỗ Tiến Đức


Dec 12, 2002

Tướng Phạm Ngọc Sang đã mất rồi. Tin ông từ giã cõi đời không làm tôi ngạc nhiên hốt hoảng, nhưng đã khiến hồn tôi lịm đi, đầu óc tôi tê liệt, trống rỗng không biết bao nhiêu lâu. Mãi một lúc sau, tôi thấy hình ảnh Phạm Ngọc Sang đang dần dần hiện ra Đó là cảnh anh nằm bất động trên giường bệnh, phòng số 5, lầu 4 tại nhà thương Garden Grove Hospital. Đó là những lần gặp nhau của gia đình Cao Đẳng Quốc Phòng, anh ngồi lặng lẽ, nghe nhiều hơn nóị. Đó là lúc anh cùng một số bạn bè trong gia đình Cao Đẳng Quốc Phòng kéo lên nhà tôi chơi.

Mới hai tuần trước, ông bà Nguyễn Xuân Vinh từ San Jose xuống Nam Cali có việc. Khi nghe anh Trần Dật báo tin anh Phạm Ngọc Sang đang nằm trong bệnh viện, e khó qua khỏi, ông bà vội ngỏ ý nhờ anh Dật đưa tới thăm ngay buổi chiều hôm thứ sáu đó. Vợ chồng tôi được anh Trần Dật gọi cùng đi nhân thể, vì anh Dật đã hẹn chở tôi đi thăm anh Sang vào cuối tuần. Cảm động nhất trong chuyến đi này là thái độ của bà Nguyễn Xuân Vinh. Bà đang bị đau chân, mỗi bước một khó khăn dù được chồng dìu đi dịu nhẹ. Thế mà khi tới bệnh viện, bà không chịu ngồi trong xe chờ chúng tôi lên thăm, mà bà nhất định đi cùng. Tôi nhớ bà nói: «Tôi phải lên thăm anh Sang chứ. Mà tôi còn muốn thăm chị Sang nữa, vì chúng tôi quen nhau từ lâu lắm, với lại để an ủi chị ấy vì chị ấy chịu nhiều bất hạnh.».

Tướng Sang nằm trong căn phòng hẹp, giữa những chiếc máy bơm thuốc vào cơ thể. Giáo sư Vinh vội vã bước tới bên giường, nắm tay anh, sờ đầu, sờ mặt anh. Giọng ông trầm hẳn xuống : «Sang! tụi này tới thăm Sang! Sang có nhận ra không?» Tướng Sang như bừng tỉnh, đôi mắt mở ra ngu ngợ Trần Dật nói: «Thưa niên trưởng, có ông bà giáo sư Vinh, anh chị Đức tới thăm niên trưởng». Thấy tướng Sang vẫn bất động, anh Dật giải thích với chúng tôi: «Ông ấy không nói được nhưng vẫn nghe được. Ông ấy biết mình tới thăm».

Tôi đứng lặng người nhìn Phạm Ngọc Sang và biết ngay rằng người bạn đồng môn trường Cao Đẳng Quốc Phòng này của tôi đang sống những ngày cuối cùng ở thế gian nàỵ Buổi tối hôm đó, khi về nhà tôi đã email báo tin cho anh em về tình hình Phạm Ngọc Sang. Tôi viết: Khi chúng tôi ra về, tôi tần ngần đứng lại, nói với ông Sang: «Sang ơi, mình về nhé. Nào, bắt tay nhau một cái đi». Và tôi thấy máy ngón tay của Sang nhúc nhích. Tôi vội nắm lấy những ngón tay ấỵ. Tôi có cảm tưởng những ngón tay ông ấy cũng đang muốn nắm lấy những ngón tay tôị..».

Lập tức Đại tá Dương Hiếu Nghĩa từ bang Washington đã email lại cho tôi với lời khuyên đại ý: «Niên trưởng ráng lo giữ sức khoẻ, phải lạc quan để sống. Chúng ta sẽ trở về Sài gòn trong vinh quang vào năm 2005». Ông Nghĩa vẫn có thói quen gọi tôi là «niên trưởng» vì tôi học khoá 1, còn ông ấy học khoá 5 trường Cao Đẳng Quốc Phòng.

Trên đường về từ bệnh viện, vợ chồng anh Trần Dật kể cho chúng tôi nghe về bệnh tình của tướng Sang. Ông đã ra vào bệnh viện nhiều lần trước khi rơi vào tình trạng nguy cấp hiện naỵ Trần Dật là sĩ quan cấp tá trong Không quân của Việt Nam cộng hòa, tuy không làm dưới quyền tướng Sang, nhưng anh nói : «Tôi rất kính phục tướng Sang. Ông là người có tư cách và nổi tiếng thương lính».

Trần Dật kể rằng hơn chục năm trước, anh sáng lập nhóm «Không gian Thân tình» với mục đích kêu gọi những chiến hữu trong không quân ở hải ngoại tương trợ anh em ở quê nhà. Nhóm này có gửi tiền về giúp tướng Sang hai lần, một lần ông còn trong trại tù cải tạo và một lần ông đã được thả. Cả hai lần, tướng Sang đều viết thư trả lờị Trong thư ngày 27 tháng 2, 1991 viết từ Trại Thủ Đức, tướng Sang viết : «.. ..Qua ít hàng này, trước là để xác nhận món qùa nói trên, sau là để cảm ơn qúi anh, mặc dầu xa cách nhau 16 năm, đã còn nhớ đến tôị..». Trong thư ngày 23 tháng 2, 1992, tướng Sang báo tin ông được thả ngày 11 tháng 2. Ông viết : «Hôm 5 tháng 2, 1992 vì bị bệnh đường ruột nên tôi được Trại cho chuyển về Bệnh viện Chợ Rẫỵ Ngày tháng 2, Trại cử cán bộ xuống Chợ Rẫy lăn tay và làm thủ tục xuất trại cho tôị Hôm 18 tháng 2, tôi xuất viện về nhà».. .. Một đoạn khác ông viết : «Như thế là tôi đã ở trong các trại cải tạo từ 16 tháng 4, 1975 đến 12 tháng 2, 1992, còn ít ngày nữa là đủ 17 năm.. ..».

Theo anh Trần Dật thì ngay khi tướng Sang đặt chân lên miền đất tự do, ông đã đích thân tới nhà anh nhân buổi sinh hoạt của Nhóm Không Gian Thân Tình để bầy tỏ lòng cảm ơn về những số tiền mà anh em đã gửi về quê nhà giúp đỡ ông.

17 năm trong tù cộng sản! Theo lời chị Sang thì chính vì cuộc sống tù đầy, bị hành hạ cả tâm hồn lẫn thể xác nên anh Sang bị bệnh ra máu đường ruột từ lúc anh ở trong trại tù Hà Nam Ninh tức trại tù Ba Sao nổi tiếng khắc nghiệt của chế độ cộng sản.

Tướng Phạm Ngọc Sang sinh năm 1931 tại Gia Định, theo học trường Trung học Petrus Ký rồi bị động viên học khoá 1 Thủ Đức. Năm 1952 ông được cử sang Pháp học khoá 52F huấn luyện phi công Việt Nam đầu tiên. Sau khi mãn khoá, ông về nước và được giao trách nhiệm lái máy bay cho Tổng thống Ngô Đình Diệm từ năm 1955 cho tới ngày chấm dứt chế độ đệ nhất cộng hòạ Ít lâu sau ông được cử ra phục vụ tại trường sĩ quan phi hành Nha Trang. Mang lon Đại tá, ông theo học khóa 3 trường Cao Đẳng Quốc Phòng, rồi năm 1972 ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư đoàn 6 Không quân, đặt bản doanh ở Pleiku, trách nhiệm vùng trời quân đoàn 2. Một năm sau, ông được vinh thăng chuẩn tướng.

Vào đầu tháng 3, 1975, khi cộng sản miền Bắc xua quân tấn công miền Nam, theo lệnh di tản của Tổng thống Thiệu, tướng Phạm Ngọc Sang đưa Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 15 th6ang 3, 1975 về tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22 tháng 3 ông được lệnh mang đơn vị về Phan Rang. Chưa kịp thích nghi với sinh hoạt địa phương, Sư đoàn 6 Không Quân đã phải đương đầu với cộng quân như một sư đoàn Bộ binh.

Và trong cảnh quân ta từ quân đoàn 1 và quân đoàn 2 rút chạy trong hoảng loạn về phía Nam thì Sư đoàn 6 Không Quân của tướng Sang, từ ngày 1 tháng 4 đã trở thành đơn vị phòng thủ ở tuyến đầu, nắm giữ sinh mạng của thủ đô Sài gòn.

Ngày 4 tháng 4, 1975 Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tới Phan Rang thiết lập bộ chỉ huy tiền phương, đã phải ở trong căn cứ của Sư Đoàn 6 Không quân, vì tình hình đã rất nguy ngập do Nha Trang, Cam Ranh đều đã rơi vào tay địch. Tỉnh trưởng Phan Rang cũng đã lặng lẽ bỏ chạỵ Tướng Sang viết : «Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 không quân. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không Quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp này».

Theo hồi ký của tướng Sang thì ít ngày sau, tình hình Phan Rang đã vãn hồi trật tự. Quân cộng sản Bắc Việt trên đường vô miền Nam đã bị đánh bật trở lại với những thiệt hại nặng nề. Thế nhưng, bất ngờ vào ngày 12 tháng 4, 1954 lệnh từ Quân Đoàn 3 rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu Đoàn 5 Dù là những đơn vị đang cầm chân địch ở Phan Rang, để thay thế bằng những đơn vị què quặt là Sư đoàn 2 của tướng Trần Văn Nhựt vừa tháo chạy khỏi Quảng Ngãi và Liên đoàn 3 Biệt Động Quân đang thiếu hụt quân số trầm trọng.

Cuối cùng thì trong ba vị tướng ở mặt trận Phan Trang, chỉ có tướng Nhựt là thoát kịp, còn hai tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang bị cộng sản bắt trên đường rút chạy vào sáng ngày 16 tháng 4, 1975. Trong hồi ký, tướng Sang thuật lại đoạn này như sau : «Trung tướng Nghi, ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Ngoài số quân nhân này bị họ đưa đến một địa điểm khác để giam giữ, riêng ba chúng tôi thì bị chúng dẫn ngược về Nha Trang sáng hôm saụ Trên đường tôi thấy rất nhiều xe thiết giáp, thiết vận xa và vận tải địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thểu, lang thang đi ngược trở về».

Nhìn cảnh dân chúng ngơ ngác, thất thểu bên đường, còn mình thì bị địch bắt, tướng Sang ngđm ngùi phẫn hđn : «Tôi bỗng cảm thấy có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành». Cũng trong hồi ký «Trận Phan Rang» viết ngày 15 tháng 1, 2002 tướng Sang nhđn xét rằng «Phan Rang có vị trí rất thun lợi cho việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được». Thế nhưng Phan Rang vẫn mất thật mau lẹ, giống như nhiều nơi khác, bị mất từ lúc cộng quân chưa kịp di chuyển tớị Phải chi nếu Quân đoàn 3 đừng rút khỏi Phan Rang những đơn vị thiện chiến đang phòng thủ để thay thế bằng những đơn vị què quặt, tinh thần còn dao động, thì biết đâu Phan Rang chẳng đứng vững.

Một sĩ quan Không Quân dưới quyền tướng Sang, khi nghe tin ông mất đã kể lại cho bạn bè nghe về lúc đóng quân ở Phan Rang, đã được Thiếu tá Nhẩy Dù Trương Dưỡng viết trong «Đời Chiến Binh» trang 194 đại ý như sau: «Lúc đó có chiếc C47 được trang bị máy móc để làm bộ chỉ huy trên không. Tướng Nghi bảo tướng Sang cùng sĩ quan tham mưu lên bay trên trời để tiếp vđn chỉ huỵ Tướng Sang trả lời rằng : Trung tướng ba sao ở dưới đất, cho tôi là tướng một sao lên trời và có thể bay khỏi đây bất cứ lúc nàọ Không, tôi sẽ ở bên Trung tướng, chịu chung sự nguy hiểm với Trung tướng».

Dù không phải là người có trách nhiệm chính trong việc phòng thủ Phan Rang nhưng ông vẫn băn khoăn day dứt về sự thất thủ của Phan Rang. Sau này ông viết : «Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lý ra theo dự trù (của Hà Nội) chúng chỉ có thể tấn công vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng sau chiến thắng đã tuyên bố tại Cuba : «Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền Nam».

Lời tuyên bố này chứng minh được việc chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòạ Việc mất Phan Rang qủa đúng là một tổn thất quá lớn lao cho công cuộc bảo vệ miền Nam.

Tướng Phạm Ngọc Sang đã trải qua nhiều trại tù của cộng sản từ miền Bắc vào miền Nam. Hai trại tù ông ở lâu nhất là Hà Sơn Bình và Hà Nam Ninh. Cựu Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng đã có một thời gian ở chung trại tù với tướng Sang, nói rằng : «Ông Sang là một người rất có tư cách, rất đàng hoàng. Trong tù, ông ít nói, thường ngồi trầm ngâm như một con hổ nhớ rừng. Ông chỉ tâm sự với những người nào mà ông tin cậy». Nhà văn Nguyễn Vạn Hùng cũng từng ở tù chung với tướng Sang và cựu Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng, nói thêm rằng : «Tướng Sang được mọi người gồm tù và cán bộ cộng sản kính nể. Ông hay giúp đỡ và an ủi anh em trong tù gặp những hoàn cảnh khó khăn».

Chị Sang cho biết chị biết anh bị bắt ở Phan Rang khi nghe tiếng anh nói trên đài phát thanh cộng sản. Chị tự an ủi mình và an ủi 5 con rằng, dù sao thì anh Sang còn sống, chị còn hy vọng có ngày gặp lạị Mãi tới năm 1979 chị mới nghe bạn bè cho tin anh Sang đang bị giam ở trại Hà Nam Ninh. Lđp tức chị phải mua «vé đi lại» lần mò ra Bắc kiếm tìm chồng. Khi tới trại tù, chúng chỉ cho chị được gặp anh tối đa 20 phút, và phải soạn sẵn những câu muốn hỏi anh để đưa cho chúng xem trước. Đã thế mà khi hai vợ chồng gặp nhau, tên cán bộ còn ngồi ngay bên cạnh để nghe và kiểm soát.

Vào một lần đi thăm nuôi, anh Sang đã cho chị biết anh bị chứng ra máu đường ruột. Rồi vào ngày tết năm 1992, anh ở trại tù Z30D thì bệnh anh trở nặng có thể nguy đến tính mạng. Vì thế, chúng mới đưa anh vào Bệnh viện Chợ Rẫy, rồi hai tuần sau thì cho giấy tha anh ngay trên giường bệnh. Anh chị đã sang Mỹ năm 1993 theo diện đoàn tụ, do người con trai trưởng vượt biên năm 1989 bảo lãnh. Chị nói : «Tôi thương thằng cháu này lắm. Nó rất là có hiếu, nay đã bốn mươi mấy mà nhất định không chịu cưới vợ. Nó cứ nói nó còn phải lo cho cha mẹ cái đã. Thành thử cô bạn gái thương nó, chờ không được, đã đi lấy chồng, còn cháu vẫn ở không».

Chị cũng cho tôi biết anh Sang sẽ được hỏa táng. Trong tang lễ của anh, có nhiều chiến hữu của anh từ các nơi về Nam Cali tiễn đưa anh lần cuốị Trong số những người bạn này có ông bà Nguyễn Xuân Vinh. Giáo sư Vinh nói về tướng Phạm Ngọc Sang như sau: «Chúng tôi nhap ngũ cùng một khoá, quen biết nhau đã trên nửa thế kỷ. Sang là một phi công điềm tĩnh, tài bạ Khi tôi làm tư lệnh Không Quân thỉnh thoảng chúng tôi có bay chung với nhaụ Anh ấy là một cấp chỉ huy gương mẫu và là một người bạn tốt».

Thôi, xin tạm chia tay nhau, anh Sang.

Đỗ Tiến Đức



No comments:

Post a Comment