Friday, February 24, 2017

Người Bạn Cạnh Phòng

Huy Sơn

Đời sống quân đội cho tôi có thêm một gia đình. Trong đó mọi người đối xử với nhau rất thân thiết và yêu thương cũng giống như anh em ruột thịt. Chúng tôi cùng chung sự sống chết với nhau mỗi khi chiến trận xẩy ra. Chúng tôi cùng vui khi đạt được những điều tốt đẹp và cùng buồn khi gập phải những điều chẳng may.

Tôi và Yến thuyên chuyển cùng lượt ra phi đoàn tân lập 532, danh hiệu Gấu Đen, đồn trú tại căn cứ Phù Cát, thuộc sư đoàn VI Không Quân. Yến trẻ hơn tôi một tuổi và gia nhập Không Quân sau tôi khoảng một năm. Chúng tôi đều là phi công tác chiến A-37 đã tốt nghiệp tại Hoa Kỳ và từ căn cứ Không Quân Trà Nóc thuộc sư đoàn IV Không Quân ra trình diện phi đoàn tân lập vào đợt đầu tiên. Vì vậy chúng tôi được ưu tiên chọn phòng cho mình trong hai dẫy nhà dành riêng cho các sĩ quan độc thân của phi đoàn. Mỗi dẫy nhà gồm có 10 phòng, cứ hai phòng nằm xoay lưng vào nhau và có cửa đi thông qua. Cách xây cất kiểu nhà binh này có dụng ý là nếu khi có chuyện cấp bách, người cư ngụ tại đây có thể thoát ra ngoài bằng hai lối. Tôi và Yến đã quyết định chọn hai căn phòng đầu dẫy, xoay lưng vào nhau và từ đấy chúng tôi trở nên "Bạn Cạnh Phòng."

Hàng ngày chúng tôi phải có mặt trong phòng họp của phi đoàn lúc 8:00 sáng để điểm danh và theo dõi sinh hoạt trong ngày. Những ai có tên bay phi vụ sáng thì sửa soạn sẵn sàng để chờ lệnh cất cánh từ Hành Quân Chiến Quộc, còn lại những ai bay chiều thì có thể rủ nhau đi ăn sáng với điều kiện phải cho sĩ quan trực biết địa điểm, để khi cần anh ta có thể liên lạc được.

Cái không khí sinh hoạt của một phi đoàn tác chiến luôn có tính cách nghiêm trọng, mọi người ít nói chuyện với nhau, yên lặng chăm lo phận sự của mình. Phi đoàn có phòng giải trí, tại đây có một bàn ping-pong cho những ai thích môn thể thao nhẹ và một bàn cờ tướng cho những ai thích đấu trí. Nơi góc phòng có một tủ lạnh lớn đựng các thứ giải khát. Phi đoàn cũng có một phòng ngủ trưa, trang bị máy điều hoà không khí để ai cần dưỡng sức chờ đến phi vụ của mình. Tuy thời gian của mỗi phi xuất phản lực tác chiến A-37 có hơi ngắn, trung bình từ một giờ đến một giờ rưỡi, nhưng nó đòi hỏi người phi công phải ở trong tư thế khỏe mạnh và nhậy bén, sẵn sàng đáp ứng với mọi tình huống một cách nhanh chóng và chính xác, nếu không thì hậu quả của nó khó mà lượng được.

Đến 5:00 chiều, hết giờ làm việc. Đa số chúng tôi kéo nhau ra ăn cơm tối tại quán Tư Sa. Quán cơm nằm cạnh quốc lộ Số 1, thuộc xã Gò Găng. Quán này được trông coi bởi một trong những bà vợ của ông tài xế xe đò có tên là Tư Sa. Nghe đâu ông ta có khoảng 4 đến 5 bà vợ, mỗi bà đều được ông lập cho một quán ăn, đặt tên là "Tư Sa," ở rải rác dọc theo quốc lộ Số 1, trên đoạn đường ông chạy xe đò từ Đà Nẵng vào Tuy Hoà. Các bà lấy nguồn lợi quán ăn cuả mình để nuôi con. Mỗi lần xe chạy ngang qua quán Tư Sa là ông dừng lại, trước là thăm vợ và con sau là đổ khách cho họ ăn uống, tiện lợi cho ông đôi đàng. Anh em độc thân Không Quân cũng có dịp đi đến nhiều nơi khác nhau, có cơ hội làm quen nhiều bạn gái, từng được nổi tiếng đào hoa nhưng khi đã lập gia đình thì đa số chỉ biết chí thú với một người mà thôi, thua xa ông tài xế xe đò "Tư Sa" này!

Chẳng bao lâu tôi và Yến trở nên thân thiện. Chúng tôi hay chia sẻ với nhau về chuyện bay bổng và kể sơ qua về chuyện gia đình của mình trước giờ ngủ. Nhờ đó tôi biết quê của anh ở Long Xuyên và đã có người yêu. Cô ta kém anh 2 tuổi, học cùng trường và thua 2 lớp. Họ dự trù sau này cô ta sẽ làm cô giáo còn anh sẽ gia nhập vào binh chủng Địa Phương Quân, sau đó lập gia đình rồi sinh con đẻ cái. Dự định của họ bị gián đoạn khi Yến đã đổi ý, quyết định gia nhập Không Quân. Thời gian ra trường của anh kéo dài khoảng một năm rưỡi rồi sau đó lại bị gián đoạn một lần nữa, là anh phải đổi ra phi đoàn ở tận Phù Cát, vừa xa xôi và bị cắm trại liên miên.

Một buổi trưa, tôi đang thiếp đi trong giấc ngủ dưỡng sức chờ phi vụ bay chiều. Bỗng anh sĩ quan trực phi đoàn lay tôi dậy và hớt hãi nói là thiếu uý Châu Văn Yến, bay chiếc số 2 của phi tuần đánh tại Chu Pao đã bị bắn và không kịp nhảy dù. Nghe xong tôi bàng hoàng, chết điếng người đi, ú ớ chẳng nói lên lời. Tôi hy vọng đây chỉ là lời nghe được trong một giấc mơ chẳng lành. Vài phút sau, tôi lấy lại được bình tĩnh, đi đến nhấc điện thoại gọi Hành Quân Chiến Quộc hỏi thêm tin tức về sự việc vừa xẩy ra. Tôi được họ cho biết là quân bạn đã lên tới chỗ phi cơ bị nạn và tìm thấy thi thể của phi công chỉ còn lại một trái tim giữa đám tro tàn của xác máy bay.

Chiều đến, một mình tôi lủi thủi ra quán Tư Sa. Các món ăn vẫn được nhà hàng dọn ra như thường lệ nhưng vì thiếu Yến, người bạn đồng nghiệp và cũng là người bạn cạnh phòng, giờ đây trở nên lạt lẽo. Tôi gọi cô con của bà chủ quán đến tính tiền và vội vàng rồ máy xe Honda, rời quán dưới sự kinh ngạc và đầy thắc mắc của cô.

Ngày tiễn đưa quan tài phủ Lá Cờ Vàng của Yến về tỉnh Long Xuyên có trung tá Phi Đoàn Trưởng, đại uý An Phi và tôi. Chúng tôi đại diện phi đoàn, theo chiếc C7 cất cánh vào buổi sáng sớm tại phi trường Phù Cát trong lúc ngoài trời mưa rơi tầm tã, như tiếc thương cho một cánh chim đã phải lià đàn, rời xa tổ ấm.

Ngồi trong khoang tầu, tôi đưa mắt nhìn qua cửa sổ của thân máy bay. Xa xa là dẫy Trường Sơn, uốn khúc chạy dọc theo bờ biển hình chữ "S", quê hương yêu dấu của chúng tôi đang ở trong thời kỳ khói lửa mà ở đó có nhiều trai trẻ, điển hình là bạn cạnh phòng của tôi, đang nằm trong cỗ quan tài được phủ Cờ Vàng, đã hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ núi sông.

Khi máy bay đáp xuống phi trường Long Xuyên, tại đây đã có một chiếc xe GMC đậu sẵn chở chúng tôi đến bến tầu và từ đó tàu phải chạy khoảng nửa tiếng mới tới bến đậu trước nhà của gia đình Yến.

Ngồi trên tầu, chúng tôi được tiếp chuyện với anh trung úy Bộ Binh, người anh họ của Yến. Anh đại diện gia đình ra đón chúng tôi. Anh cho chúng tôi biết chương trình sắp tới sẽ cho mở nắp quan tài hiện tại để thân nhân viếng thi thể nạn nhân lần cuối trước khi đặt vào cỗ quan tài mới và nghi lễ hạ huyệt sẽ được cử hành ngay trước nhà. Nghe xong chúng tôi rất lo lắng. Vài phút sau, phi đoàn Trưởng của chúng tôi lấy lại được bình tĩnh nhờ anh thuyết phục với gia đình Yến hủy bỏ ý định thay quan tài vì lý do tránh cho các thân nhân nhìn thấy thi thể không nguyên vẹn của người chết trận. Rất may vì anh là một quân nhân nên đã thông cảm lời yêu cầu rồi nhận lời. Chúng tôi thở phào, cảm thấy gánh nặng trên vai như đã nhẹ bớt được phần nào.

Con tầu tiếp tục chạy giữa lòng sông, hai bên bờ có cây cối mọc um tùm. Bỗng nhiên chúng tôi nghe có tiếng súng nổ, càng lúc càng gần. Chúng tôi đâm ra lo lắng, không chừng nếu địch quân nhận ra được trên tầu có cỗ quan tài phủ Cờ Vàng, chúng sẽ thụt vài trái B40, thì người bạn cạnh phòng của tôi sẽ chịu cảnh "Người Chết Hai Lần." Người anh họ của Yến liền trấn an chúng tôi, anh cho biết vùng này rất an ninh, hầu hết cư dân theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo, Việt Cộng không dám bén mảng về đây. Dân địa phương biết tàu sắp tới, họ bắn vài phát súng chào Linh Cửu.

Tầu giảm tốc độ, từ từ lướt nhẹ trên mặt nước rồi ngừng hẳn bên bờ sông ngay trước nhà của Yến chừng khoảng 100 thước, trước hè có đông đảo dân chúng đang đứng chờ. Người anh họ của Yến lên bờ trước tiên, chạy ngay đến ông bà thân sinh ra Yến thưa chuyện, sau đó ông bà mời chúng tôi vào nhà trên, ở đây bàn thờ Yến đã được dọn sẵn và có đông đảo thân nhân, bạn bè đứng trang nghiêm chung quanh. Chúng tôi theo thứ tự mỗi người thắp một nén nhang cắm lên bàn thờ của người quá cố, một nghĩa cử đại diện cho phi đoàn biết ơn anh đã vị quốc vong thân.

Trên chuyến tàu đưa chúng tôi trở về đơn vị, tôi thầm cám ơn Thượng Đế đã che chở và ban ơn cho chúng tôi hoàn tất xong một công việc đầy khó khăn và đau khổ, tiễn đưa quan tài của một người anh hùng Không Quân, một lần ra đi, không ai tìm xác rơi. Từ nay tôi sẽ vĩnh viễn không còn Yến, người bạn cạnh phòng để chia sẻ với nhau những nỗi vui buồn của đời sống nhà binh. Tôi cầu xin Thượng Đế ban nhiều Hồng Ân cho gia đinh và người yêu của Yến có thể vượt qua nỗi khổ đau của sự mất mát quá to lớn này.

Huy Sơn



Thursday, February 23, 2017

Wednesday, February 22, 2017

Thằng Mõ Làng Cảnh Thụy

Trung Mọi

Từ dạo chiến tranh Việt Nam bùng nổ dữ dội giữa hai miền Nam Bắc những năm 69, 70, khi ông "Nic-son" Tổng Thống nước Hoa Kỳ ra lệnh thả bom Hà Nội thì nàng tài tử "Jên-Phón-Đa" Jane Fonda cũng làm một chuyến du lịch đến thăm anh em của già Hồ.

Vừa bước xuống phi trường Bạch Mai Hà Nội, nàng đã ngạc nhiên, không hiểu tại sao ở đây không khí có mùi gì là lạ, nàng phải bịt mũi lấy tay phẩy phẩy làm như xua đuổi tà ma vậy.

Nàng vội ghé tai tên thông dịch viên và cũng là người hướng dẫn viên hỏi rằng:

- Tại sao ở đây có mùi gì mà ngộ thế?

Tên thông dịch viên vội đáp:

- Đây là mùi thơm đặc biệt của Hà Nội "Ngàn Năm Văn Vật" đấy mà... Bà đi khắp năm Châu cũng không tìm được đâu đấy.

"Phón-Đa" hỏi:

- Tại sao lại đặc biệt quá vậy? theo tôi nghĩ thì dường như nó phát ra từ những nhà "Xí" ở nước tôi vào cái thời lập quốc đấy mà... có đúng không?

- Không đâu, ở nước chúng tôi các kỹ sư nhà nước đã sáng chế ra một loại "phơ-tơ-nai-dơ" (fertilizer) đặc biệt để cải cách nông nghiệp đí mà...

Khi bước chân đến Hà Nội "Phón-Đa" cảm thấy mình như một nàng công chúa hay có thể nói là nàng tiên giáng trần, được các chú cán ngố xum xoe bên nàng làm như chưa bao giờ thấy người đàn bà da trắng "tóc vàng sợi nhỏ" bao giờ...

"Phón-Đa" lấy làm hãnh diện và thích thú lắm.

Một ngày nọ vào chiều thứ Bảy, nàng muốn tự mình đi điều tra phong cảnh hưũ tình của cái gọi là 36 Phố Phường. Nàng bèn leo lên một chiếc xich lô, loại xích lô cổ lỗ xĩ hơn cả Miền Nam lúc bấy giờ. Tên đạp xích lô gầy gò, đen đủi, thân cao như sếu, tóc để dài và bới tó củ hành như những ông đồ ta ngày xưa.

Hắn cứ cắm đầu cắm cổ mà đạp, đạp một hồi thì xe ra khỏi thủ đô mà "Phón-Đa" cũng chẳng hay biết gì vì nàng đang say mê ngắm cảnh "tiến bộ" gần như thụt lùi của "đỉnh cao trí tuệ" miền Xã Hội Chủ Nghĩa.

Đến khi chiếc xe xích lô đưa nàng đến một con đường đất, hai bên cây cối um tùm rồi qua một rừng tre xanh rờn nàng cảm thấy nhẹ nhàng khi nghe tiếng nước róc rách chảy, tiếng chim kêu hót mà không thấy bóng người. Nàng dáo dác nhìn chung quanh và quay lại hỏi:

- Ông đưa tôi đến đâu vậy?

- Đưa cô đi gặp một người.

Tên xích lô có vẻ thông thạo tiếng Anh lắm.

- Tại sao tôi lại phải gặp một người? mà ông ta là ai?

- Rồi sẽ biết.

Nói xong tên xích lô bèn dẫn cô đi theo con đường mòn đến một ngôi đình đổ nát dường như đã bị bỏ hoang lâu ngày, nhưng nàng ngạc nhiên sau khi lướt qua những đổ nát bên ngoài, bước vào bên trong sao lại sạch sẽ ngăn nắp quá vậy. Nàng có vẻ sợ hãi vì sợ rằng có thể đây là xào huyệt của "thế lực thù địch" chăng?! đang còn ngơ ngác thì có tiếng nói phát ra từ bên trong:

- Chào cô

Nàng mở to măt nhìn một ông lão ngoài 70, tóc bạc phơ, đầu đội khăn đóng bước ra chào. Tên xích lô và nàng tiến gần đến chỗ ông lão, ông bèn ra dấu cho y thông dịch lại:

- Chào cô "Phón-Đa" tôi đây chính là "thằng Mõ làng Cảnh Thụy". Nhà tôi ba đời làm mõ, hôm nay làm phiền cô đến đây thật là qúa đường đột, nhưng mà có chuyện cần muốn nói ra cái hoài bão của lão!

- Ta vốn là "Mõ Làng" ăn một mâm, ngủ một mình nhưng từ khi con cháu thằng Hồ Chí Minh chiếm đất Bắc thì tôi đã mất chức từ dạo ấy, nên dùng căn miếu này mà sống qua ngày. Chẳng hiểu tại sao cô lại đến cái xứ của chúng tôi làm gì, vả chăng các cô không biết rằng mình đã mắc mưu bọn "đồng chí đồng rận" ấy để giúp chúng thắng được cuộc chiến "nồi da xáo thịt này", xâm lăng miền Nam của chúng tôi!!

Phón Đa lặng thinh không nói. Lão ông tiếp:

- Không ngờ cô và bọn phản chiến lại làm tay sai cho bọn Cộng Sản Nga Tàu, "Trục Ma Qủy" để chúng thôn tính nước chúng tôi... Cái bọn con cháu Hồ Chí Minh đã tệ mà Cô và bọn John Kerry lại còn tệ hơn, vừa làm tay sai cho giặc lại vừa phản lại quốc gia mình thật là tội đồ tội đồ.

- Cô hãy cút về ngay đi đừng làm con rối ở xứ này nữa... Không ngờ con của một tài tử nổi tiếng lại phản dân phản nước như cô...

Cô có biết không tên John Kerry ấy đúng ra là phải bị nhốt tù và trình diện toà án Quân sự mới phải... Nó vừa phản quốc lại còn lừa dối gạt cả Quốc Hội Mỹ lẫn các nhà lãnh đạo các quốc gia trong khối "Tự Do" trên thế giới... thật là vô tích sự. Cũng vì thế mà dân chúng Mỹ cứ tưởng rằng quân đội Mỹ và nhà cầm quyền Miền Nam là tệ hại không đáng bênh vực và yểm trợ... Lại thêm cả nhóm trốn lính nhập với bọn phản chiến cùng bọn truyền thông thiên tả cũng đánh vào, thì làm sao nhân dân Miền Nam chống đỡ nổi với bọn "Gian tặc họ Hồ" bây giờ đây?

Ngưng một lát cụ Mõ hít một hơi thuốc lào rồi chậm rãi nói:

- Cho nên hôm nay tôi cho người đón cô về đây để mạn đàm với cô một vài vấn đề...

Phón Đa ôm ly nước trà hớp vài ngụm rôì lắng nghe cụ Mõ trầm tư đôi chút rồi tiếp:

- Cô có biết câu truyện thần thoại về thằng Mõ của các Cụ nhà ta không?? như chuện kể rằng "Dối như cuội" tức là thằng Cuội, nó là một kẻ lừa đảo thiên hạ, đến nỗi cả Thiên đình đều biết nên Ngọc Hoàng bèn đầy y lên cung trăng để hầu hạ chị Hằng... nào ngờ hắn còn lừa cả chị Hằng và sinh ra một đám những kẻ lưà dối chuyên nghiệp đem về trái đất và lập ra cái Đảng Cộng Sản mà cái "Trục Ma Qủy" này cô và chồng cô đang ủng hộ chúng đấy..

- Này cô Phón Đa, cô có biết những nhà khoa học, bác học của xứ cờ Hoa nhà cô đã lập căn cứ trên các hành tinh từ những năm chiến tranh thế giới thứ hai chưa nhỉ... Thật ra đó là hậu thân của bọn Phát Xít Đức mà thôi (The paper clips Project), chúng đã có những căn cứ ở Nam Cực trước khi đầu hàng Đồng Minh và sau đó còn giao kết với bọn người của Không gian đến từ các hành tinh khác bằng dĩa bay, và lập căn cứ ở mặt sau của cung trăng đó không?? bởi thế bọn con cháu chị Hằng phải hồi hương trở lại trái đất này là vậy...

- Cô Phón Đa... chắc cô không biết rằng văn minh của con người đã có từ mấy tỉ ngàn năm trước Thiên Chúa rồi sao... chớ có phải cái thuyết "Nhân hoá" của ông già lẩm cẩm Darwin, y nói rằng con người là hoá thân của loài khỉ... là tầm bậy, chỉ có bọn ngu dốt của "Trục Ma Qủy" mới thừa nhận vì chúng là cốt khỉ nên mới làm chuyện "gà nhà bôi mặt đá nhau" để làm lợi cho bọn Nga Tàu và Tài Phiệt đấy thôi.

- Để tôi chứng minh cho cô xem nhé... Cô đã có dịp nào đi thăm Kim Tự Tháp cũa Ai Cập, các Chùa tháp của Ấn Độ, của Campuchia, những di tích cổ xưa đổ nát của Thành La Mã, hay những kiến trúc bị tàn phá của các nước Nam Mỹ như "Pumapunku, Tiwanaku của Peru và Bolivia, Teotihuacan của Mexico... Những kiến trúc bằng đá nặng ngàn tấn xếp khắt khiu vào nhau mà không cần phải có xi măng hay chất xúc tác nào làm nó đứng vững vàng như vậy... đấy chính là văn minh của con người đã có từ triệu năm xưa, văn minh của sự "giác ngộ" siêu đẳng.

Và chỉ có con người thật giác ngộ mới di chuyển được những tảng đá khổng lồ từ một nơi xa xôi và đưa lên những ngọn núi cao đến mấy mươi dậm... Các Cụ ta vẫn thường nói " Đội đá vá trời" là như vậy, chỉ có những con người cổ xưa tu thân tích đức, giác ngộ cao siêu nên mới làm được như vậy... So với ngày nay thì con người vì tham sân si quá độ, những sự lừa dối, những truyền thông thiên tả, những kẻ bề thế chỉ biễt thủ lợi mà đi bênh vực kẻ xấu như các quốc gia đã bênh vực cho "Trục Ma Qủy", nên không thể có những xiêu nhân thượng đẳng để "đằng vân" ngao du thiên hạ hay có cái nhìn "thiên lý nhãn" có thể nhìn xa thấy rộng...

Đấy con người ở khắp hành tinh trong Thái Dương Hệ "Solar system", kể cả trong giải Ngân Hà "Milky Way"... Họ đã đến và họ đã đi, và đã yên phận trong những hành tinh của triệu giải Ngân Hà khác trong vũ trụ này...

Những kiến trúc đổ nát này là do những "Trục Ma Qủy", những loại "mạng người cốt rắn" "Reptalians" gây chiến và đã phá đổ những di tích lịch sử ấy.

Ngày nay cũng có những Trục Ma Qủy nối dòng, ẩn núp trong các cơ quan chính quyền mà xứ cô gọi là "sleepers" cùng với Trục Ma Qủy Cộng Sản đang gây tác hại cho loài người như những sự ô nhiễm môi trường, xử dụng những độc tố giết người trong các loại thức ăn hằng ngày của con người ở khắp nơi trên thế giới... cũng như gây chiến tranh hủy diệt lẫn nhau v.v...

Con người còn tạo ra các loại bom Nguyên Tử để thanh toán và tiêu diệt lẫn nhau trên qủa đất này... Cô có biết những nhà máy phát điện "Hạt Nhân" cũng có thể coi như những trái bom nổ chậm không??

Đúng vậy, chỉ cần một hai trái bom nguyên tử nổ ở hai đầu thái cực của trái đất tức thì những lò phát điện hạt nhân sẽ thi nhau nổ liên tục, và chỉ trong 1 giờ đồng hồ trái đất này sẽ nổ tung như cái gọi là Nova hay "Big Bang"...

Sức phá họai của nó sẽ ảnh hưởng đến các tinh cầu khác và nhất là những tinh cầu trong Thái Dương Hệ "Solar system", và như vậy nó sẽ ảnh hưởng đến các môi trường và sinh vật khác trong vũ trụ, hỏi rằng "Hội Đồng Tối Cao của Vũ Trụ" có thể chấp nhận được không??

Do đấy mà người ta mới thấy xuất hiện "dĩa bay" đủ loại từ ngoài không gian xuất hiện trên bầu trời này.

- Phón Đa à, cô có biết tại sao chúng lại xuất hiện càng lúc càng nhiều không??

Đây là những xứ giả được Hội Đồng Tối Cao gởi đi để giám sát và theo dõi nhưng sinh hoạt của các lò Nguyên Tử và tình hình chính trị trong các quốc gia cò vũ khí Nguyên Tử, hầu có thể hoá giải kịp thời.

Nhưng theo như lời dạy của sư phụ ta thì thế giới này sẽ không qua khỏi một cuộc tương tàn mà chỉ còn "Mười phần chết Bảy còn Ba, chết Hai còn Một mới ra Thái Bình".

Do đấy mà ta khuyên cô nên ra về và truyền bá cho mọi người hãy tự "Tu Thân Tích Đức" thương yêu con cháu mình, làm những việc thiện gíup đồng loại, bỏ hết những Tham Sân Si đi, thì may ra trái đất này sẽ còn sự sống.

Cụ Mõ ngồi yên nhắp mấy hớp trà rồi nhìn sang Phón Đa chậm rãi tiếp:

- Thôi cô hãy về đi, những gì ta nói hôm nay coi như đã giải tỏa cái tâm niệm của Thầy ta và ta cũng đã mãn nguyện lắm rồi.

Phón Đa chắp tay xá Cụ Mõ và quay đi không nói một lời nào, bước đi nặng trĩu tâm thần như đang ở trên mây, cô ngồi lặng lẽ cho đến khi tên tài xế lái xích lô báo là đã đến khách sạn.

Từ đó Phón Đa cũng chưa bao giờ thổ lộ cho bất cứ ai kể cả chồng nàng.

Cuộc đời như thoáng mây bay
Có đi có ở mới hay
Tham lam cũng tất tay không trở về.

Trung Mọi

Cali ngày 17 tháng 2 năm 2017
Nhớ về người cha hay kể chuyện cười và cụ Tô Hưũ Tường



Tuesday, February 21, 2017

Người Bạn Thời Niên Thiếu

Những Bài Thơ Kỷ Niệm


KQ Trần Đình Phước


Thời gian trôi qua quá nhanh. Mới đó thấm thoát mà đã hơn năm mươi năm, nhưng tôi vẫn không thể nào quên hình ảnh và kỷ niệm về một người bạn thuở thiếu thời. Đó là “Nguyễn Phú Tuấn.”

Niên khoá 1964-1965 Tuấn và tôi cùng học lớp Đệ Tam Trường Trung Học Tư Thục Tân Thạnh trên đường Trần Quang Khải,Tân Định,Quận 1, phía gần đầu đường Hai Bà Trưng. Hiệu Trưởng là Thầy Phan Út.

Tân Thạnh là một trường trung học tư thục không lấy gì là nổi tiếng, học phí tương đối rẻ, điều kiện trường lớp cũng trung bình, nếu đem so sánh với các trường tư thục khác trong vùng như: Đông Tây Học Đường, La San Đức Minh, Huỳnh Thị Ngà, Nguyễn Công Trứ, TânThịnh (sau đổi thành Les Lauriers), Vạn Hạnh, Văn Hiến, Văn Lang, Vương Gia Cần…

Trường nằm trong hẻm số 196 TQK. Học sinh muốn vào trường phải đi ngang qua Bảo Sanh Viện Ngô Liêng do vợ của Thầy Hiệu Trưởng làm chủ. Bên hông trường có một con hẻm nhỏ đi ra được đường Đặng Dung, có một mái che nhỏ là giang san của ban nhạc kèn thổi kèn đám tang và khóc mướn Bắc Hà. Giờ ra chơi học sinh thường kéo nhau ra nghe ban nhạc tập dợt, có lò bún làm bỏ mối cho các chợ Tân Định, Đa Kao, Bà Chiểu và Phú Nhuận. Đối diện với Bảo Sanh Viện Ngô Liêng là chỗ làm bản kẽm tên Cliché Dầu, nhà cho thuê xích lô đạp, cạnh bên là tiệm sửa xe mô tô Chín Kết, rồi tới tiệm giặt ủi Tân Tiến. Nhìn sang bên kia đường là Hãng Gạch Bông và Billards Vân Sơn, kế bên là Trường Tiểu Học Tân Dân Học Đường, bên cạnh một Villa cổ có cây Hoàng Lan già nở những hoa vàng rực rỡ cho mùi thơm ngào ngạt về đêm.

Trong sân trường có một cây Quế già thân rất to. Vào giờ ra chơi, học sinh thường chạy đến tước vỏ chỉ để phá cho vui, vì có bóc vỏ ra được cũng không biết dùng để làm gì? Phải nói là học sinh của lớp Đệ Tam của tôi lúc đó đúng là “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”, tụi tôi quậy phá tưng bừng, hết biết! Học chẳng ra học, hành chẳng ra hành, nói chung là học rất tài tử. Muốn đến trường, muốn vào lớp là cứ tùy tiện như ở nhà, vì tất cả chỉ nghĩ đơn giản lớp Đệ Tam là lớp không phải thi, học sinh coi như lớp này để dưỡng sức, tà tà, không cần chú tâm hay chuyên cần cho lắm! Để dành sức chờ sang năm lên Đệ Nhị chiến đấu, lúc đó học vẫn còn kịp cho kỳ thi Tú Tài Một, miễn sao cứ lo làm tròn nhiệm vụ đóng học phí đầy đủ trước ngày năm Tây mỗi tháng và mỗi khi thầy giám thị Ba Già đi điểm danh đầu giờ ráng có mặt trong lớp là coi như an toàn trên xa lộ.

Trong suốt năm học cố gắng thi đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt với bài vở các môn học có điểm đầy đủ là coi như cuối năm được cấp học bạ, dù trình độ học vấn, hạnh kiểm, đạo đức có bị Giáo Sư phê ra sao trong học bạ cũng không có gì quan trọng và cũng không bao giờ bị ở lại lớp. Khi lên Đệ Nhị coi như đủ điều kiện hợp lệ để nộp đơn thi Tú Tài Một. Nếu thi rớt mà còn tuổi thì năm sau tiếp tục thi lại, còn nếu thi đậu, không muốn học nữa và thích làm “Quan” thì tình nguyện vô Trường Bộ Binh Thủ Đức, thụ huấn giai đoạn một ba tháng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quân Sự Quang Trung, rồi chuyển qua Trường Bộ Binh Thủ Đức học giai đoạn hai với tám tuần huấn nhục không thấy trời, trăng, mây, nước. Khi xong giai đoạn này sẽ được gắn con cá vàng lững lờ trên vai và được cho đi phép đặc biệt. Lúc đó tha hồ mà “Sàigòn Thứ Bảy, còn ai mong chờ. Một người Lính trẻ về thăm kinh đô”, bay nhảy,tung tăng khắp phố phường; nếu có người yêu tuổi học trò thì dung dăng, dung dẻ hai trẻ dắt nhau vào tâm sự cho bớt nhớ nhung ở Rex,Đại Nam,Văn Hoa, Casino Saigon..., tiếp đến ngồi kem Mai Hương, Brodard… ngắm ông đi qua, bà đi lại, để bù lại thời gian khổ cực rèn luyện nơi “Quân trường đổ mồ hôi, sa trường bớt đổ máu.”

Mấy tháng sau tốt nghiệp ra Chuẩn Úy, trên vai sẽ được đeo quai chảo. May mắn về được các ngành hay đơn vị có chữ “Quân” ở đầu như: Quân Báo, Quân Bưu, Quân Cảnh, Quân Nhạc, Quân Nhu, Quân Tiếp vụ, Quân Vận, Quân Y, Quân Xa… thì tương đối khoẻ một chút ! Còn không thì sẽ bết bùn đất hành quân, quanh năm, suốt tháng lặn lội nơi bưng biền ca bài “Anh Đi Chiến Dịch, Biển Mặn, Chiều Biên Khu, Chiều Mưa Biên Giới, Chiều Hành Quân, Chiều Trên Phá Tam Giang, Đồn Văng Chiều Xuân, Hai Mươi Bốn Giờ Phép, Mưởi Hai Tháng Anh Đi, Ngày Anh Đi, Rừng Lá Thấp, Trên Bốn Vùng Chiến Thuật, Xuân Này Con Không Về… (*)

Nếu như không muốn chọn con đường binh nghiệp sớm để “Một xanh cỏ, hai đỏ đời” thì tiếp tục học lên lớp Đệ Nhất thi Tú Tài Hai, sau đó vào đại học, hay đi du học thì tuơng lai hy vọng sẽ le lói, sáng lạn hơn.

Trong giờ học, khi Giáo Sư vừa quay mặt vào bảng viết vài chữ thì ngay sau đó vài con nhạn ngồi bàn cuối nhảy qua cửa sổ để trốn ra ngoài: hút thuốc, lang thang, đi xem xi nê Văn Hoa, Kinh Thành, Moderne, Casino Đa Kao, Asam, thụt bi da Vân Sơn, chơi đá banh bàn ở quán bà Sáu bán trà Huế trên đường Bà Lê Chân. Hôm nào rủng rỉnh một chút thì cả đám kéo đến ngồi cà phê Văn Hoa vừa uống cà phê, vừa nhà khói thuốc lá hình vòng tròn bay lơ lửng trên ly, vừa nghe nhạc ngoại quốc và ngắm hai chị em TBD&TBH “Bắc Kỳ nho nhỏ và xinh xinh.” Gặp lúc hai cô vui, sà đến bên bàn xã giao hỏi thăm sức khoẻ vài câu, đưa mắt đá lông nheo, cười đờ mi là ngày hôm đó coi như “Chưa có hôm nào uống cà phê tuyệt vời như hôm nay!”, khi ra quày trả tiền thấy nhẹ nhàng,vui vẻ. Các địa điểm giải trí này đều nằm không xa trường là bao!

Các Thầy cảnh cáo, la mắng đám học sinh bê bối hình như có hai lỗ tai cây, nên các Thầy cũng đâm ra chán. Sau đó, mặc kệ mấy em muốn làm gì thì làm, miễn là trong giờ các Thầy dạy, học sinh phải giữ im lặng, đừng đánh lộn, hay gây ra những chuyện đáng tiếc để phải gọi giám thị xuống lớp mời lên văn phòng phân xử là coi như êm.

Vào lúc đó có phong trào học sinh làm thơ, viết văn, hát hò nở rộ khắp các trường công lập cũng như tư thục, nào là thi văn đoàn Bông Cỏ May, kia là nhóm thơ Phượng Tím Buồn, chỗ khác là nhóm văn nghệ Tuổi Hoa Niên, chỗ nọ bút nhóm Tuổi Ô Mai, rồi ban Văn Nghệ Đường Sáng, Tuổi Hồng,Tia Hy Vọng…Nói chung thi văn đoàn, nhóm, ban văn nghệ mọc lên như nấm và rụng như lá mùa Thu. Không biết trong chốn văn đàn đó có em nào về sau này nổi danh như cồn không?

Lớp Đệ Tam của tôi cũng bắt chước xuất hiện một nhóm thơ được đặt tên là nhóm “Hoa Cô Đơn” chỉ gồm vỏn vẹn có ba đứa là: Trần Minh Cảnh, Nguyễn Phú Tuấn và tôi. Chúng tôi để tóc dài, tập phì phà, phì phèo điếu thuốc Ruby Queen (giá ba đồng - bốn điếu), gương mặt lúc nào cũng tạo cho mình ra vẻ lập dị, mơ mộng, thẩn thờ và vênh vênh tự đắc. Hàng tuần gặp nhau một lần để phân chia công việc, phân công gửi bài cho các báo đăng, xem ai viết gì? làm gì?đều đưọc phân nhiệm rõ ràng. Chiếc xe đạp cà rịch, cà tàng của tôi, đôi khi chở ba để đi gửi bài cho các báo mà thấy thương cho con ngựa sắt quá mỏng manh, có lần xe bị bể bánh, phải chia nhau vác về nhà, vì các văn nghệ sĩ tài tử “mậu lúi” không có tiền để vá xe.

Trần Minh Cảnh và tôi không có gì gọi là xuất sắc hay nổi bật. Riêng, Nguyễn Phú Tuấn có nhiều ưu điểm hơn hai đứa tôi về mọi mặt như: đẹp trai, hát hay, làm thơ giỏi, viết chữ đẹp và nói chuyện rất có duyên. Trong một lần lớp tổ chức cây mùa xuân vào dịp Tết, Tuấn đã làm các Thầy và bạn cùng lớp ngạc nhiên khi nghe Tuấn hát "Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa” của nhạc sĩ Tô Vũ và “Gửỉ Gió Cho Mây Ngàn Bay” của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn & Từ Linh. Giọng ca của Tuấn rất tuyệt vời, điêu luyện như ca sĩ nhà nghề. Tôi tin rằng những học sinh lớp Đệ Tam niên khoá 1964 - 1965 trường Tân Thạnh khó có thể nào quên. Ngoài ra, các ca khúc tiền chiến khác, Tuấn hát cũng được chúng tôi ngưỡng mộ, dù nhạc lý Tuấn hoàn toàn không biết gì hết!

Nhóm Hoa Cô Đơn hoạt động tương đối cũng nổi đình, nổi đám. Ô Chữ, Câu đố, thơ, tùy bút, truyện ngắn được đăng rải rác trên nhiều báo. Riêng, thơ do Nguyễn Phú Tuấn sáng tác được chọn đăng đều trên Nhật Báo Chính Luận của Bác Sĩ Đặng Văn Sung và một vài tuần báo như: Ngôn Luận, Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, Măng Non...

Triều Vũ là bút hiệu mà Nguyễn Phú Tuấn ký trên các bài thơ do Tuấn sáng tác. Thơ của Tuấn thường nói về Đời Lính, ca ngợi những mối tình của em gái ở hậu phương với anh trai nơi tiền tuyến và về cuộc sống di chuyển nay đây, mai đó của người lính chiến phong trần, nhiều khi lỡ đi không kịp về. Lúc đó Tuấn không hề có kháí niệm về quân trường hay quan tâm gì đến chuyện lính tráng, vì Tuấn là con trai duy nhất trong gia đình, nên có đủ điều kiện miễn hoặc hoãn dịch.

Khi lên Đệ Nhị thì nhóm Hoa Cô Đơn tự động giải tán, vì chúng tôi không còn học chung và không còn dịp gặp nhau nữa! Sau Tết Mậu Thân năm 1968. Lệnh tổng động viên toàn quốc ban hành. Cảnh được tạm hoãn dịch vì lý do học vấn. Tuấn và tôi cùng gặp nhau ở Quân Trường Thủ Đức. Tôi rất ngạc nhiên và hỏi Tuấn: “Tại sao Tuấn lại có mặt ở đây, vì Tuấn là con trai một, đủ điều kiện để hoãn hay miễn dịch đâu cần phải nhập ngũ?” Tuấn cho biết thích đời sống quân ngũ, thích đi đây, đi đó. Bây giờ, hầu hết các bạn đều lên đường nhập ngũ tòng quân bảo vệ tổ quốc, chẳng lẽ mình ở ngoài với đời sống dân sự cũng thấy áy náy, kỳ kỳ. Thế là Tuấn phải năn nỉ mẹ nhiều lần. Cuối cùng, bà đành phải đau lòng đồng ý cho đứa con trai duy nhất của mình chọn nghiệp binh đao nhiều dữ hơn lành.

Tuấn và tôi cùng nhập ngũ khoá 7/68. Tuấn đi Bộ Binh, còn tôi tình nguyện vào Không Quân. Lúc đó Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ở Nha Trang không đủ chỗ để huấn luyện và cũng vì nhu cầu cấp bách theo sự bành trướng và phát triển của Quân Chủng, nên Bộ Tư Lệnh Không Quân gửi chúng tôi gồm 260 khoá sinh Không Phi hành và Phi Hành học giai đoạn một ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và giai đoạn hai ở Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sau khi tốt nghiệp mang cấp bậc Chuẩn Úy.

Những ngày còn thụ huấn ở quân trường, hai đứa chúng tôi vẫn thường gặp nhau. Khi thì ở Câu Lạc Bộ Minh Nguyệt, lúc ở khu sinh hoạt, hoặc về phép cuối tuần cùng nhau đi uống cà phê Hân, Duyên Anh ở Đa Kao,Thu Hương gần Nhà Thờ Tân Định. Cả hai cùng nhắc lại những kỷ niệm lúc học lớp Đệ Tam và hy vọng có dịp sẽ cho tái hoạt động nhóm Hoa Cô Đơn.

Thời gian thụ huấn ở quân trường trôi qua rất nhanh. Tháng Tư, năm 1969 là lễ mãn khoá tốt nghiệp ra trường. Sau khi hết hạn muời ngày phép.Tuấn về trình diện Sư Đoàn 7 Bộ Binh, thuộc Trung Đoàn 10, còn tôi trình diện Đại Đội Hành Dinh Không Quân để chờ đi học Anh Văn. Chúng tôi chưa có dịp nào gặp lại thì chỉ vài tháng sau, tôi nhận được tin Tuấn tử trận ở chiến trường Mộc Hoá. Sự ra đi vĩnh viễn của Tuấn, để lại nỗi khổ đau vô vàn cho thân mẫu Tuấn, gia đình, bà con và bạn hữu trong đó có tôi. Bạn Tuấn của tôi ra đi quá trẻ ở tuổi hai mươi mốt,

Kẻ ra đi ươm nhiều ước mộng.
Người ở lại hoài vọng tiếc thương.
(không rõ tác giả)

Tôi tình cờ đọc được trên mộ bia của một phi công Không Quân Việt Nam Cộng Hoà ở Nghĩa Trang Mạc Đỉnh Chi trước năm 1975. Lúc đó tôi đến thăm mộ cố Trung Úy NHT là bạn cùng khoá và rất thân với tôi đang nằm yên nghĩ nơi đây.

T.. là cựu học sinh trường trung học công lập Võ Trường Toản, Sàigòn. Nhà T.. ở Cư Xá Phú Nhuận, vừa qua Ngã Tư khoảng hai trăm mét, đi ngang Hội Thông Thiên Học gặp đường Nguyễn Huệ phía bên phải. Cư xá nằm đối diện với Sân Golf, đi thêm một chút là Trung Tâm Tiếp Huyết và Bệnh Viện Cộng Hoà. Hai địa danh này hầu như nhiều anh em ta ghé thăm vì nơi đây “PHỞ” bán giá rất bình dân so với nhiều nơi khác.

Các bạn cùng khoá và tôi thỉnh thoảng đến nhà T.. chơi. Dịp này má T.. thường nấu các món ăn rất ngon cho chúng tôi ăn. Có thể nói bà là môt nội trợ khéo, thương con và quý bạn của con mình. Bà thuê một góc của quán Thanh Vân gần chợ Cây Quéo nằm trên đường Ngô Tùng Châu và Hoàng Hoa Thám, Gia Định để bán Cơm Tấm. Bà chỉ bán vào buổi sáng, ròng rã từ năm 1956 đến năm 1990 mới giải nghệ vì đi định cư Hoa Kỳ do con gái lớn bảo lãnh. Hiện Bà đã 86 tuổi, còn mạnh khoẻ đang sống với con cháu ở thành phố Dorchester, tiểu bang Massachusetts. Có lẽ Thượng Đế đã đền công xứng đáng cho bà sau những tháng ngày cơ cực, lam lũ nơi quê nhà?

Cơm Tấm Bà Út một thời nổi tiếng với món cơm bì hột gà Ốp La và bánh mì bì trét mỡ hành chan nước mắm không đối thủ. Bà dùng loại nước mắm nhĩ đặc biệt, pha với nuớc dừa xiêm, đường cát trắng tinh, các gia vị được nêm nếm theo công thức đặc biệt. Nhiều bạn thân của bà đến nhờ chỉ lại. Bà hết lòng hướng dẫn tận tình từ đầu tới cuối hoàn toàn không giấu nghề, nhưng không ai làm nước mắm ngon như bà. Theo tôi, có lẽ bà đặt chữ Tâm trong lúc pha chế?

Ngoài ra, T.. có một cô em dễ thương lúc đó đang học Đệ Nhị Trường Nữ Trung Học Trưng Vương, Sàigòn mà chúng tôi đứa nào cũng đều tình nguyện xin được làm em rể. Chuyện này T.. luôn luôn tán đồng, hay nói vô giùm, cũng như xúi bạn bè hãy mạnh dạn can đảm nhào vô kiếm ăn. Nhưng tất cả chúng tôi đều trớt quớt vì em gái T..có số không được làm nàng dâu Không Quân.Thôi! đành hẹn lại kiếp sau.

Cuối tháng 10, năm1994. Tôi đang ở New York. Dịp này tôi dành thì giờ ghé thăm bà ở Dorchester, MA. Hôm ấy bà đãi chúng tôi gồm ba người: cựu Trung Tá BGĐ (A-37),Thiếu Tá STH (UH-1) và tôi món Cua Alaska rang me do bà nấu, phải nói là ngon tuyệt vời. Trong lúc ăn, sương sương vài lon Budweiser, tôi can đảm nói với bà “phải chi con được là rể của bác thì hay biết mấy!” Bà trả lời ngay “Sao lúc đó con không chịu nói. Con mà nói là bác gả con gái của bác cho con liền.Trong mấy đứa tới nhà chơi,bác trai và bác chấm con là được nhất.” Nghe đâu, sau này em lập gia đình với một Giáo Sư dạy Kỹ Thuật ở Đà Nẵng. Còn tôi, có một thời gian lang thang từ Tây Ninh, sang Long Khánh, đến Bù Gia Mập, Bù xia (Phước Long), rồi tiếp tục đào kinh, đắp nền nhà ở Long An gần biên giới Cambodge. Sau đó mới chịu ký giấy chung thân với một em ở Đa Kao khi tuổi gần bốn bó.Vậy mà cũng chịu đựng đã hơn ba mươi năm với ba chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh. Và bây giờ đang nhìn trời hiu quạnh nơi đất khách, quê người. Tự an ủi trong lòng là mình vẫn còn may mắn ở lứa tuổi hoàng hôn trên biển vắng.

T.. it nói, tính tình điềm đạm và thường giúp đỡ bạn bè, nên ai ai cũng mến. Sau khi nghiệp Phi công Trực Thăng ở Hoa Kỳ về nước. T..được thuyên chuyển ra Phi Đoàn 235 (Sơn Duơng) năm 1972, và vài tháng sau hy sinh trong một phi vụ bảo vệ vùng trời biên trấn. Nơi đây chỉ đi năm phút đã trở về chốn cũ mà bài hát “Còn Chút Gì Để Nhớ” thơ Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc do ca sĩ Không Quân Sĩ Phú cất giọng hát đã làm nhức nhối, ray rức những tâm hồn cô đơn sống xa nhà nơi thành phố mưa bụi sương mù Pleiku.


Còn Chút Gì Để Nhớ
Thơ Vũ Hữu Định - Nhạc Phạm Duy
Hát: Sĩ Phú

Còn Chút Gì Để Nhớ - Phạm Duy - Sĩ Phú - TTMD - V2 Còn Chút Gì Để Nhớ Sáng tác: Phạm Duy Trình bày: Sĩ Phú TTMD Mũ Đỏ VNCH " Nhảy Dù Cố Gắng "

Nói đến Pleiku, những ai đã từng đến đây khó có thể quên con đường Hoàng Diệu, khu Chợ Mới, vòng quay Diệp Kính, xóm đạo Đức An, Câu Lạc Bộ Phượng Hoàng hay còn gọi là Vũ Trường Phượng Hoàng, Trường Nữ Trung Học Pleime, Trường Bán Công Phạm Hồng Thái nằm trên đuờng Trịnh Minh Thế, mà vào giờ tan học các tà áo trắng nữ sinh phất phơ trước gió làm rung động những “Con tim chân chính không bao giờ biết nói dối” của các chàng lãng tử xa nhà.

Pleiku cũng có nhiều quán cà phê dễ thương: Văn, Băng, Thương, Tay Trái... Đặc biệt, cà phê bình dân Dinh Điền nổi tiếng với buổi sáng trời mù sương, dưới cơn mưa bụi lất phất, hai tay bỏ trong túi áo Field Jacket, thả bộ từ từ, chậm rãi ngược lên con dốc nhỏ trên đường Hai Bà Trưng trong khu dinh điền nơi quán toạ lạc. Nghe gió thổi nhè nhẹ, vi vu, hít thở mùi cà phê thoang thoảng quyện theo gió làm cho những đệ tử trung thành của cà phê cũng phải ngây ngất theo hương vị đặc biệt này. Ngoài ra, cũng phải kể tới quán cơm gà Ngọc Hương với món thịt gà luộc chấm mắm gừng độc đáo. Có thể nói là không có bất cứ quán cơm gà nào khác có thể so sánh bằng!

Sau khi Tuấn mất, thỉnh thoảng tôi ghé thăm nhà Tuấn ở một con hẻm nhỏ, ngang hông với Hồ Tắm Cộng Hoà, gần khu ngã tư Bảy Hiền để an ủi thân mẫu Tuấn và đốt vài nén nhang cho bạn tôi. Mỗi lần như thế Bà đều sụt sùi khóc, Bà ôm chầm lấy tôi vì thương nhớ con làm nước mắt tôi lúc này cũng tự nhiên tuôn trào theo. Lâu lâu có nhiều thời giờ tôi cũng chạy xe Mobylette lên thăm mộ Tuấn ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà.

Sau ngày 30 tháng 04, năm 1975, vì hoàn cảnh tôi mất liên lạc với gia đình Tuấn. Đến khi có điều kiện, nhiều lần tôi trở về tìm lại con hẻm nhà Tuấn, nhưng nơi đây bị xoá hẳn, không còn dấu vết gì để lại. Có thể nói là thay đổi hoàn toàn. Bây giờ, những người từ đâu dọn đến. Họ xây dựng nhà mới nhiều quá! Hỏi thăm bà con ở đây, nhưng không một ai biết một chút gì về con hẻm ngày xưa của bạn tôi.

Hôm nay, tình cờ tìm thấy trong trang sách cũ, những bài thơ do Tuấn sáng tác, lúc chúng tôi cùng học chung dưới mái trường Tân Thạnh. Tuấn đã dùng viết với mực đen để viết tặng tôi, nét chữ phóng khoáng rất đẹp, bay bướm, thật sắc bén, dù đã trải qua bao nhiêu năm tháng mà vẫn không phai mờ theo bụi thời gian. Ngẫm lại, mới đó mà đã hơn năm mươi năm. Lòng tôi bùi ngùi, xúc động, tôi vẫn tưởng như đang ngồi dưới mái trường thân yêu, bao nhiêu kỷ niệm thuở học trò đột nhiên lần lượt trở về. Ôi! tuổi hoa niên thật đẹp và sao hồn nhiên quá!

Trong thời gian học chung dưới mái trường Tân Thạnh, chúng tôi cũng chơi thân với một người bạn, nhưng anh chàng này không thích thơ với thẩn. Mỗi lần gặp mặt chúng tôi anh thường trêu chọc “Thân chào các bạn nhóm Hoa Ngứa Dại của tôi. Cầu chúc các bạn nổi tiếng và thành công trên văn đàn miền Nam, để cho tôi dựa hơi và hãnh diện một chút.” Rồi bạn nói thêm như thầm nhắc nhở “Liệu mà lo học nhé!” Năm sau đến lớp thi rồi đó! Lạng quạng là "đơ dèm cùi bắp", hay đeo cánh gà chiên bơ. Tuy nhiên, anh luôn luôn ủng hộ mọi sinh hoạt của chúng tôi. Đó là Nguyễn Tiến Thụy.

Nhà Thụy ở tận chợ Thị Nghè, đến trường bằng phương tiện lô ca chân. Nhìn bộ dáng bên ngoài có vẻ lè phè, nhưng là học sinh giỏi trong lớp. Đi học chỉ vỏn vẹn có hai quyển tập học trò nhét sau túi quần. Vậy mà vẫn ghi chép đầy đủ bài giảng các môn học của các Thầy không sót một chữ nào.

Năm 1967, Thụy tình nguyện vào Không Quân, được gửi lên Trường Bộ Bình Thủ Đức học giai đoạn một, thuộc khoá 27. Sau đó ra Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang thụ huấn tiếp giai đoạn hai, thuộc tài khoá SVSQ/KQ/68B, rồi đi du học Hoa Kỳ để được huấn luyện trở thành Phi công lái A-1 Skyraider. Tốt nhiệp về nước, đơn vị đầu tiên là Phi Doàn 514 (Phượng Hoàng) ở Biên Hoà, sau đó thuyên chuyển lên Pleiku thuộc Phi Đoàn 530 (Thái Dương.)

Trong một lần công tác huấn luyện ở Pleiku để hướng dẫn thực tập Nghênh Cản Giả Tạo bằng máy T2 và T4 cho các Sĩ Quan Điều Không thuộc Đài Kiểm Báo 921, còn có tên là Peacock, tôi ghé cư xá Sĩ Quan độc thân thăm Thụy, bạn cho tôi xem cái chốt của chiếc dù mà bạn nhảy dù vừa thoát chết trong một phi vụ vào ngày 27 tháng 05, n ăm 1972 khi bay yểm trợ cho quân bạn ở nột tiền đồn thuộc Tỉnh Kontum đang bị địch bao vây và tấn công. Chiếc A-1 do bạn lái từ trên cao nhào xuống bắn Rockets thì bị phòng không địch bắn cháy bên cánh trái, chỗ chứa đạn Đại Bác 20 ly. May mắn, Ơn Trên che chở, nên nhảy dù thoát hiểm và được trực thăng đến cứu kịp thời. Có thể nói cuộc đời phi công lái khu trục của Thụy rất gian nan, nguy hiểm và có nhiều lần vào sanh, ra tử.

Sau này tôi không có dịp gặp lại Thụy, chỉ nghe nói bạn bay phi vụ vào sáng ngày 29 tháng 04, năm 1975. Phi tuần gồm hai chiếc A-1 do Thiếu Tá Hồ Ngọc Ấn hướng dẫn và Thụy cất cánh từ Cần Thơ về Sàigòn để yểm trợ cho đơn vị bạn đang cần tiếp cứu. Trên đường sắp đến mục tiêu thì nghe trên tần số báo nguy 243.0 cho biết Tinh Long 7 do Trung Úy Trang Văn Thành làm Trưởng phi cơ bị trúng SA-7 gần phi trường Tân Sơn Nhất. Chiếc phi cơ AC-119K rơi như chíếc cầu lửa từ trên bầu trời xuống đất. Toàn thể phi hành đoàn tử nạn. May mắn, chỉ có một hạ sĩ quan nhảy dù ra được và rơi xuống đất bị trọng thương.

Sau phi vụ cuối cùng này, Thụy cùng một số đồng đội cất cánh di tản sang Utapao, Thái Lan ngay sau đó bằng những chíếc A-1 còn khả dụng. Coi như đây là phi vụ chấm dứt cuộc đời bay bổng của Thụy và các chiến hữu lấy gió mây ngàn và lửa đạn làm bạn đồng hành.

Cách đây vài năm, Thụy đọc một loạt bài Tân Định và Đa Kao của tôi trên Cánh Thép thấy tên tác giả là tôi, nhưng không dám chắc? Sau đó tôi nhận được Email của Thụy hỏi có phải hồi xưa tôi học trường Tư Thục Tân Thạnh không? Thế là chúng tôi nhận ra nhau sau nhiều năm mất liên lạc.

Nhắc đến Thụy để nhớ lại một kỷ niệm. Lúc đó Tuấn, Thụy và tôi thường hay nghỉ học hai giờ cuối Sinh Ngữ phụ vào ngày Thứ Sáu. Cả ba kéo đến Đài Phát Thanh Quân Đội ở đường Hồng Thập Tự, dưới chân cầu Thị Nghè để xem thâu thanh chương trình “Quân Nhân Vui Sống” do ca sĩ Tâm Đan phụ trách. Ca sĩ Tâm Đan là chị bà con với Tuấn. Chương trình này được thâu thanh vào ngày này, sau đó sẽ phát lại vào mỗi chiều Thứ Bảy cuối tuần. Có thể nói, ngoài chương trình Dạ Lan nổi tiếng thì chương trình “Quân Nhân Vui sống” cũng được hầu hết các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cũng như bà con khắp nơi khích lệ và khen ngợi. Thỉnh thoảng tôi cũng được mời góp giọng hát. Có một lần ca sĩ Tâm Đan xếp cho tôi hát liên khúc “Ngày Anh Đi & Anh Về Với Em” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Tình cờ, Ca Nhạc Sĩ Nhật Trường - Trần Thiện Thanh đang phục vụ ở phòng chương trình của đài ghé phòng thâu thanh thăm nữ ca sĩ Thanh Thúy đang có mặt ở đây. Khi nghe tôi hát, anh khen “Em hát có nét lắm đó!” Từ đó, tôi xem anh là thần tượng. Anh thường ký tặng cho tôi các nhạc phẩm do anh sáng tác trên ấn bản đặc biệt, giấy trắng láng, chỉ tặng và không bán. Hiện tôi vẫn còn giữ những kỷ niệm quý báu này được đóng bìa cứng, mạ chữ vàng và giữ gìn kỹ lưỡng như một báu vật.

Rất tiếc, tôi không có duyên với nghiệp cầm ca, dù rằng tôi là một trong mười thí sinh trúng cách cuộc thi Tuyển Lựa Ca Sĩ do Đài Phát Thanh tổ chức ở rạp Quốc Thanh năm 1965. Trong số mười thí sinh năm đó thì chín thí sinh xuất thân từ các lò nhạc có tên tuổi, có tầm vóc như: LMB, BT, Ban Việt Nhi của Nhạc Sĩ NĐ. Còn tôi thì trưởng thành từ lò bánh cuốn tráng hơi của Bà Thọ, hẻm 58 - Xóm Giếng,Yên Đổ, Tân Định.

Theo tôi được biết, chỉ có Ca Nhạc Sĩ Tấn An, thí sinh đậu thủ khoa là còn theo đuổi sự nghiệp ca hát và sáng tác cho đến năm 1975. Anh Tấn An phục vụ trong Ban Văn Nghệ Cảnh Sát Quốc Gia. Ban đêm anh vừa chơi đàn và hát cho một phòng trà gần Đệ Nhất Khách Sạn,Tân Bình. Còn tôi, thỉnh thoảng đóng góp giọng hát của mình trong các chương trình văn nghệ do đơn vị tổ chức vào dịp Quốc Khánh, tiệc tất niên, kỷ niệm ngày thành lập đơn vị hay giúp vui cho thương bệnh binh ở các Trung Tâm Hồi Lực và Quân Y Viện.

Bây giờ đang ở San José, đôi lúc tôi cũng góp giọng hát đến với các hội đoàn địa phương, tiệc tùng, cưới hỏi, hội ngộ khoá, dù giọng ca của “tài năng già” chưa bao giờ lên, nên không bao giờ xuống đã đến lúc về chiều, mà vẫn còn “Yamahamvui” không biết đến bao giờ mới tắt tiếng?

Xin được viết vài hàng để nhớ về một người bạn thuở thiếu thời, nhớ về tuổi hoa niên thơ mộng cắp sách đến trường với nhiều ước mơ tươi tươi đẹp. Giờ đây, Nguyễn Phú Tuấn đã ở một nơi thật xa. Bạn đã an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng, nơi không có hận thù, chiến tranh hay giai cấp, mọi người đều được đối xử với nhau bình đẳng.

Phần chúng tôi thì vé xe đò một chiều đã cầm sẵn trên tay. Tất cả đang cùng nhau xếp hàng đếm một, hai, ba, bốn bước đi về phía trước và chẳng còn bao lâu sẽ gặp lại bạn ở cuối trời, chân mây. Xin hãy chờ đón chúng tôi nhé!

KQ Trần Đình Phước

(San José, California)
(*) Tên các Nhạc Phẩm trước năm 1975



Saturday, February 18, 2017

Trần Duy Đức Và Hạt Thơ Nẩy Chồi Nốt Nhạc

Bắc Đẩu 01


Nhạc Sĩ Trần Duy Đức

photo by Hoàng Khai Nhan

I- Dẫn Nhập

Tuy cùng phục vụ Sư Đoàn 6 Không Quân Pleiku, cùng trú đóng trong phi trường Cù Hanh, là mục tiêu ngon lành của hỏa tiển 122 ly và đạn pháo VC, chúng tôi không thực sự quen biết nhau.

Hai mươi lăm năm sau, trong dịp Hội ngộ Gia đình Lạc Long 229, khoảng năm 2000 hoặc 2001 gì đó tại Cali, tôi gặp KQ Trần Duy Đức, bây giờ đã là một nhạc sĩ tên tuổi. Anh tặng tôi một “Tập nhạc Trần Duy Đức”, in rất đẹp.

Hai người lại cách biệt những năm sau đó. Trần Duy Đức rộn ràng bao trăn trở ở Cali phố thị, tôi chèo queo nơi đất Thánh Saint Louis miền Trung tây hẻo lánh như Cao Nguyên mù sương năm nào.

Mười năm sau, nhân chuẩn bị Hội Ngộ Phố Núi Pleiku lần thứ nhất, tháng 3/2011 tại Cali, chúng tôi bắt liên lạc được với người nhạc sĩ tài hoa và có ý mời anh tham gia. Tiếc thay, anh đang tịnh dưỡng.

Nơi đất khách quê người, nếu có gặp nhau, cũng chỉ trong tình quân chủng, chứ chẳng phải lo toan văn học nghệ thuật gì, vì trước sau, cá nhân chúng tôi vẫn là một quân nhân được đào tạo, nêú có thơ thẩn hoặc văn nghệ văn gừng vớ vẩn, thì cũng chỉ tô điểm cho đời thêm huê dạng, nhằm phục vụ cho mục tiêu chung (hoặc thỏa mãn khát vong chung) của người Việt xa xứ mà thôi.

Xin thưa một chút về thân thế như vậy để những nhận định sau nầy về “Thơ phổ nhạc của Trần Duy Đức”, là nằm trong nhận định của một không quân thời chiến trước kia, chứ không phải của nhà văn nhà báo hoặc nhà nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật gì.

II- Hạt Thơ Nẩy Chồi Nốt Nhạc

Được biết, vào khoảng 1972, KQ Trần Duy Đức, chưa đầy 20 tuổi, đã sáng tác hai nhạc phẩm đầu tay đáng ghi nhận, đó là bài Sư Đoàn 6 Không Quân Hành Khúc và Khúc Mưa Sầu.


Sư Đoàn 6 Không Quân Hành Khúc
Ban Đồng Ca PĐ229

Sư Đoàn 6 Không Quân Hành Khúc mang tính đơn vị cục bộ, nhưng khúc quân hành thật hùng hồn qua nét nhạc lời ca thật chập chùng sống động, thật vang dội truyền cảm, làm nức lòng những chiến sĩ không quân Pleiku một thời ngang dọc.

Năm 1976, Trần Duy Đức sáng tác Mặc Niệm Khúc trong bối cảnh pho tượng Tiếc Thương trước Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa bị kẻ ác giật sập. Những năm lưu lạc sau đó, đồng hương ân cần đón nhận hai sáng tác còn lại là Khúc Mưa Sầu và Mặc Niệm Khúc bởi giá trị nghệ thuật của nó. Riêng nhạc phẩm Mặc Niệm Khúc (sau được ca sĩ Khánh Ly đổi thành Anh Đã Ngủ Yên Trên Quê Hương) như còn đẫm ướt những rung cảm chân thành của tác giả dưới cơn mưa trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa năm nào...

Có thể nói “Khúc Mưa Sầu & Anh Đã Ngủ Yên Tên Quê Hương” là gia sản mà Trần Duy Đức đã liều mạng mang theo trên đường tìm tự do, được ra mắt giới nghệ sĩ Cali thập niên 1980 và hai bài ca gia sản trở thành ấn chứng về tài năng và tâm huyết của cánh chim tự do Trần Duy Đức.

Nếu bảo rằng, năng lực sung mãn nhất trong đời một người thường ở độ tuổi từ 30 đến 45, thì tài năng của Trần Duy Đức đã phát triển dồn dập trong thập niên 1990. Rất nhiều ca khúc nổi tiếng của anh được chào đời trong giai đoạn nầy.

Dù không là chuyên viên nghiên cứu và phê bình âm nhạc, nhưng qua các trang mạng, chúng tôi ghi nhận một điều hiển hiện là, phần lớn những nhạc phẩm của Trần Duy Đức sau 1975 đều phổ từ thơ của những thi sĩ nổi tiếng ở hải ngoại.

A- Những Bài Thơ Phổ Nhạc Tiêu Biểu

Sau đây là phương danh các thi sĩ và tên các nhạc phẩm do Trần Duy Đức phổ từ thơ của các vị ấy:

  • Trần Thiện Hiệp: Vẫn Là Em Muôn Đời
  • Phạm Vũ: Cố Quận
  • Hà Nguyên Du: Sầu Không Vơi, Em Có Về Như Những Cơn Mưa
  • Lê Vương Ngọc: Coi Như Mày, Cỏ Bay Vào Không Gian, Yêu Người Như Nắng Yêu Hoa
  • Nguyễn Nam An: Bài Giã Biệt
  • Cung Trầm Tưởng: Trong Trời Anh Xanh Vút
  • Nguyễn Dũng Tiến: Hoa Ơi Có Biết Lòng Ta Nhớ Người
  • Ngô Tịnh Yên: Nếu Có Yêu Tôi
  • Mai Thảo: Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền
  • Nguyên Sa: Lúc Chết
  • Du Tử Lê: Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời, Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi, Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau…

Sẽ là điều thiếu sót nếu chúng tôi không thỉnh cầu sự hỉ xả những thi sĩ có thơ do Trần Duy Đức phổ nhạc mà không nêu tên ra đây.

B– Rung Cảm Với Nội Dung

Từ danh sách nầy, chúng tôi ghi nhận chủ quan về cá tính của nhạc sĩ Trần Duy Đức.

– Là một nghệ sĩ mẫn cảm và là một người bạn trung hậu, nhu hòa và khiêm tốn. Hầu hết các văn nghệ sĩ tài danh ở Hải ngoại đều dành cho anh lòng quý mến.

– Có nhiều cách biểu lộ thiện cảm với ân nhân bạn bè. Trần Duy Đức biểu lộ tình cảm của mình bằng cách ấp ủ hạt ngọc thơ của bạn cho đến khi nẩy chồi thành nốt nhạc!

Nghe đi rồi nghe lại, nhiều lần, những bài thơ phổ nhạc của Trần Duy Đức, chúng tôi chợt phát hiện một điều khác: Khi anh phổ thơ của một thi sĩ nào, không phải vì cảm tình riêng, hoặc nể vì, hoặc làm để lấy có, hoặc để trả nợ quỷ thần… mà anh thận trọng, có lựa chọn và dĩ nhiên, có rung cảm. Mỗi khi anh “kết” một bài thơ nào, để phổ nhạc, ít ra bài thơ phải nói lên một cái gì, gởi gắm một thông điệp gì cho nhân thế, chứa đựng một triết lý gì cho mai sau… Nói cách khác, bài thơ phải tâm đắc với anh cả nội dung và hình thức. Sau đây một vài tiêu biểu:

B1- Đối Đãi Giữa Con Người

Như trong nhạc phẩm “Nếu Có Yêu Tôi”, phổ thơ Ngô Tịnh Yên, khi hát lên, ai ai cũng thấy tác giả muốn nhắn gởi điều gì. Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ/ đừng đợi ngày mai, đến lúc tôi qua đời…

Bài ca trở thành bài công dân giáo dục cho mọi người, mọi nơi, mọi thời đại.

B2- Sự Bình Đẳng

Như trong nhạc phẩm “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền”, phổ thơ Mai Thảo, qua đó, tác giả gởi gấm một quan điểm của mình qua mấy câu thơ:

Ta thấy đường ta Chúa hiện hình/
Vườn ta Phật ngủ, ngỏ thần linh/
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi…

Có phải “Sao không tâm thức riêng bờ cõi” mang tư tưởng bình đẳng cho tất cả chúng sanh, kể cả Chúa, Phật và thần linh?

B3- Tình Yêu Là Muôn Thuở

Như trong nhạc phẩm “Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời”, phổ thơ Du Tử Lê. Tên tuổi nhà thơ Du Tử Lê không còn xa lạ trong giới văn nghệ sĩ ở hải ngoại. Thơ ông mượt mà, ý tưởng dồi dào, óc sáng tạo độc đáo. Chỉ đọc cái tựa bài thơ thôi đã cuốn hút người đọc nói gì thơ tình phổ nhạc?

C- Chọn Lựa Về Kỹ Thuật

Ngoài nội dung ra, kỹ thuật bài thơ được chọn phải độc đáo. Trong khuôn khổ bài viết và trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng tôi xin nêu một bài thơ phổ nhạc mà kỹ thuật gieo vần thật mới lạ và đặc biệt, đó là bài thơ lục bát “Hoa Ơi Có Biết Lòng Ta Nhớ Người” của nhà văn Nguyễn Dũng Tiến.

Chỉ 6 chữ trong “câu lục” mà tác giả đã khéo léo gieo thành hai vế, mỗi vế 3 chữ tạo ra hai phần, một tình và một cảnh, tương phản hoặc bổ sung cho nhau:

Đêm trăng trong, lòng nhớ mong
Lanh quanh tình cũ long đong muộn phiền
Hương hoa ngâu, người ở đâu?
Em khoan trở giấc bể dâu ngậm ngùi
Ôm đóa quỳnh, buồn một mình
Lơi lơi hơi thở chùng chình trái tim
Người dẫu xa, tình thiết tha
Hoa ơi có biết lòng ta nhớ người

D- Đôi Bạn

Tác giả có thơ phổ nhạc nhiều nhất là nhà thơ Du Tử Lê. Ở tuổi ngoài ba mươi, khi tình yêu đôi lứa rực cháy trong trái tim, khi nỗi khắc khoải lưu đày ray rứt trong khối óc, đã thôi thúc Trần Duy Đức tìm đọc những bài thơ tình quá mới lạ, quá lãng mạn và quá nồng nàn của họ Du:

Khi Bắt Đầu Của Những Năm Ba Mươi/ Dòng Suối Trăm Năm/ Nhớ Lại Trong Đêm Nay/ Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời/ Khúc Tháng 2/ Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt/ Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi/ Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau…

Thi nhân và nhạc sĩ có vẻ thân cận trong sinh hoạt văn nghệ với nhau, nên Du Tử Lê viết tiểu luận về “Lộ Trình Thơ, Nhạc Của Trần Duy Đức” đăng trong Trang nhà dutule.com, qua đó, ông nhấn mạnh hai chữ Thi-Ca quấn quyện hòa nhập một thể trong nhạc-thơ Trần Duy Đức: “Người ở với thơ, người kiên trì làm đầy, miệt mài trong nỗ lực cân bằng vế thứ hai của từ đôi Thi-Ca trong ngôn ngữ Việt Nam, phải kể tới Trần Duy Đức”.

“Hôm nay, giữa quê người, ở tuổi ngoài bốn mươi, với hơn hai mươi năm ăn ở thủy chung với thi-ca, chân dung âm nhạc của họ Trần, là chân dung Thi Ca. Diện mạo đó, không phải là diện mạo song sinh của hai giọt nước, hai cõi đời văn chương và nghệ thuật. (Mà,) nó đã là một. Một định hình, duy nhất. Một thịt xương, trộn lẫn, duy nhất”.

“Chính tính bất khả phân kia, nơi đời kiếp âm nhạc mang tên Trần Duy Đức, đã làm thành một Trần Duy Đức, riêng. Rất riêng.”

III- Tạm Kết

Cái rất riêng tiêu biểu của Trần Duy Đức, theo chúng tôi, được thể hiện qua nhạc phẩm “Nếu Có Yêu Tôi” mà ngày nay, bài ca đã đi vào quần chúng, ở hải ngoại cũng như tại Việt Nam.

Trần Duy Đức & Khánh Ly

Photo by Hoàng Khai Nhan

Rất nhiều ca sĩ thành danh thâu băng hoặc trình diễn ca khúc này như Khánh Ly, Thế Sơn, Khánh Hà, Elvis Phương, Hợp Ca Lê Văn Duyệt… Khúc ca đơn giản như không khí, như nguồn nước trong lành, nhưng thật sự là nhu cầu cần thiết cho cách xử thế trong cuộc sống. Không là bài giáo lý nhưng khi tiếng ca cất lên, được lắng nghe như một chân lý.

Là một cựu không quân, khi nghe khúc ca nầy, lòng chúng tôi chùng xuống bao suy nghĩ về thân phận công dân lưu đày, thân phận cánh chim tự do bỏ xứ. Tôi đang nghĩ đến sự yêu thương độ lượng của cộng đồng người Việt hải ngoại, của tập thể chiến sĩ QLVNCH, của các huynh đệ không quân của tôi, trong đó có KQ Trần Duy Đức.

Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ/ Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người/…/ Ôi muộn làm sao nói lời tạ ơn. Nếu có bao dung thì hãy bao dung bây giờ/ Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa đời/…/ Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người. Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ/ Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời…/ Cát bụi làm sao mà biết lụy người…

Nếu Có Yêu Tôi

Thơ: Ngô Tịnh Yên
Nhạc: Trần Duy Đức
Hát: Khánh Ly
Thực hiện video: Hoàng Khai Nhan

Anh Đã Ngủ Yên Trên Quê Hương

Nhạc & Lời: Trần Duy Đức
Hát: Khánh Ly
Thực hiện video: Hoàng Khai Nhan

Xin cám ơn KQ Trần Duy Đức qua SĐ6KQ Hành Khúc và Anh Đã Ngủ Yên Trên Quê Hương. Anh thật sự khiêm cung, nhỏ nhẹ, nhu hòa, không đao to búa lớn, nhưng tâm tình của anh đối với quân chủng và quân đội, thật bao la và cao vút.

Xin cám ơn nhạc sĩ Trần Duy Đức, đã âm thầm đóng góp tâm huyết của mình, để giúp cho cuộc sống lưu vong của hằng triệu đồng hương thêm thăng hoa, thơm độ lượng, qua những ca khúc truyền cảm và ý nghĩa bấy nay…

Bắc Đẩu 01

Father Day, 06/2011



Tuesday, February 14, 2017

Em Yêu Dấu (Hoàng Khai Nhan) Vũ Khanh

Happy Valentine's Day!

"Em Yêu Dấu"

Sáng tác: Hoàng Khai Nhan

Hát: Vũ Khanh

Thực hiện & Dàn dựng: Hoàng Khai Nhan


Click on the video above to play!
It's best if you can play it on a 4K TV or monitor.
Click on Subscribe (a little red button on lower right corner of the video)
if you wish to receive notification
each time HKN Channel has a new song published.



Saturday, February 11, 2017

Đời Phi Công (Lê Tín Hương) Anh Dũng

Ban Biên Tập hân hạnh giới thiệu một nhạc phẩm của nhạc sĩ Lê Tín Hương vừa cảm khái sáng tác sau khi đọc Đời Phi Công của Giáo Sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh. Chị Lê Tín Hương sáng tác bài hát này đề tặng các Chiến Sĩ Không Quân VNCH.

Đời Phi Công

Thơ Nhạc: Lê Tín Hương

Hát: Anh Dũng

Thực hiện & Dàn dựng: Hoàng Khai Nhan


Click on the video below to play!




Click on the link below to read:

Đời Phi Công

Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh



TiVi Tuần-San phỏng vấn
Giáo Sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh


TVTS Journalist Van Nguyen interviews
aerospace scientist and educator Nguyễn Xuân Vinh



Tuesday, February 7, 2017

Căn Cứ Không Quân Phù Cát

Huy Sơn

Chiếc vận tải cơ C7 cất cánh tại phi trường Cần Thơ, chở 6 anh em chúng tôi, ba phi công thuộc phi đoàn 520, danh hiệu Thần Báo và ba phi công thuộc phi đoàn 526, danh hiệu Satan lấy hướng Bắc đưa chúng tôi đến căn cứ Không Quân Phù Cát của sư đoàn VI Không Quân, tại tỉnh Bình Định.

Tâm trạng của tôi khi ấy có thể nói là không buồn và cũng chẳng vui. Bấy lâu nay vẫn nghe anh em Không Quân rỉ tai, Phù Cát là căn cứ Không Quân dành cho những ai bị đì. Thực sự chữ "đì" ở đây không có nghĩa là thượng cấp trong quân đội ghét bỏ đàn em, rồi có những hành động với chủ ý không được tốt với người đó. Chữ "đì" ở đây chỉ có nghĩa là những ai phải thuyên chuyển về đây đều phải chịu cảnh "buồn" của căn cứ. Vì anh em chúng tôi khăn gói quả mướp đến căn cứ này trong chương trình đáp ứng nhu cầu chiến trường, thành lập thêm phi đoàn mới. Danh sách anh em chúng tôi phải ra đi là do kết quả "hên-xui" của cuộc bắt thăm chứ nào có bị ai đì.

Anh em chúng tôi, tất cả đều nín thinh, ngồi trong khoang tầu C7. Không ai nói với ai một câu nào, có lẽ một phần vì tiếng động cơ có hơi ồn và một phần chúng tôi mong sớm được tới nơi, xem chỗ ở tương lai của chúng tôi ra sao.

Tôi đang nghĩ mông lung thì viên phi công Trưởng ngoái đầu ra sau buồng lái, báo cho chúng tôi biết là máy bay đã ở trên không phận của thị xã Quy Nhơn và chừng khoảng 15 phút nữa là sẽ đáp xuống phi trường Phù Cát. Tôi nhìn qua cửa sổ bên phải của thân máy bay. Bên ngoài trời đang mưa lớn, thị xã Qui Nhơn khi hiện, khi khuất vì bị mây che. Con tàu gầm gừ cố tiến tới, có lẽ vì bị gió thổi mạnh và ngược nên tôi có cảm tưởng nó như bị dừng lại.

Tôi thở phào và cảm thấy người nhẹ nhõm khi bánh của máy bay chạm nhẹ trên mặt phi đạo và từ từ lăn bánh, di chuyển đến sân của bãi đậu trước Hậu Trạm. Tại đây, chúng tôi thấy có mặt đại tá căn cứ trưởng Nguyễn Hồng Tuyền, niên trưởng đã không quản ngại mưa gió, dành thì giờ qúy báu, chờ sẵn đón chúng tôi. Tay bắt mặt mừng, cái giây phút đầu tiên ấy tuy ngắn ngủi nhưng mỗi khi chúng tôi nhớ đến đều cảm thấy ấm lòng, về tình cảm thân thương của một anh cả Khu Trục đối với đàn em.

Tài xế chở anh trên chiếc xe Jeep chạy trước, hướng dẫn chiếc xe Step Van chở anh em chúng tôi chạy theo sau. Khi chạy ngang qua dẫy Hangar thì hai xe cùng ngừng lại chốc lát. Anh cho chúng tôi biết đó là những chiếc A-37B mới được tiếp nhận, kiểm soát và ở tình trạng khả dụng hành quân. Kế đến xe đưa chúng tôi đến phi đoàn, đây là một cơ sở được xây dựng rất tiện nghi, ngăn nắp và kiên cố. Trong đó có phòng trực bay, phòng họp, phòng sĩ quan cấp chỉ huy, phòng để dù và nón bay, phòng giải trí và phòng vệ sinh. Nơi đây là cơ sở cũ của phi đoàn F-100 giao lại. Sau đó chúng tôi được Anh thiết đãi một bữa cơm thân mật tại câu lạc bộ Sĩ Quan trước khi đến cư xá Sĩ Quan Độc Thân.

Căn cứ Không Quân Phù Cát do quân đội Hoa Kỳ xây dựng và bàn giao cho sư đoàn VI Không Quân vào thời gian quân đội Mỹ ngừng tham chiến tại Việt Nam. Căn cứ này nằm trên một ngọn đồi thấp trồng xoài. Trước mặt khoảng 10 dặm là biển Việt Nam và sau lưng là một thung lũng, bao bọc bởi những dặng núi nhấp nhô của dẫy Trường Sơn. Đối với quân sự, địa điểm này có lợi về hai mặt: Mặt đất liền, là nơi phát xuất những phi vụ oanh tạc ra tới đường mòn Hồ Chí Minh và biên giới vùng Tam Biên (V-M-L). Mặt biển, là nơi phát xuất những phi vụ ngăn chận hữu hiệu tàu bè từ miền Bắc xâm nhập vào miền Nam.

Căn cứ luôn luôn bị áp lực mạnh, phát xuất từ lực lượng quân đội chính quy của sư đoàn Ba Sao Vàng. Đã có lần bọn chúng điên rồ, xua quân chiếm được ngọn đồi chỉ cách khoảng hai ba dặm ở về phía Tây của căn cứ. Nhờ vào sự chỉ huy khôn khéo của vị căn cứ Trưởng, Anh đã phối hợp đơn vị phòng thủ Phi Trường, phi đoàn 241, phi đoàn 243 và phi đoàn 532 giữ vững được căn cứ và tái chiếm được ngọn đồi, đẫm máu quân địch trên dưới cả đại đội và nhiều vũ khí. Tôi ngậm ngùi và cảm động khi đọc lá thư trong ba lô của người quá cố, đại uý đại đội trưởng Việt Cộng. Lá thư viết bởi thân mẫu của anh và trong đó có câu "Xuân này, quê hương mình đang được hưởng cảnh thanh bình. Máy bay Mỹ đã ngừng ném bom. Mọi người nô nức đón xuân nhưng mẹ vẫn trông chờ một cánh chim, sao bay mãi chưa về..."

Phù Cát được mệnh danh là căn cứ Không Quân "buồn" nhất, so với tất cả các căn cứ Không Quân khác của quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hoà, bởi hai lý do: Thứ nhất là vị trí ở xa thành phố. Chúng tôi muốn ra Qui Nhơn chơi bằng đường bộ, thì ít nhất phải mất nửa tiếng lái xe Honda. Thứ hai là sau 6:00 chiều căn cứ bị đặt ở trong tình trạng nội bất xuất và ngoại bất nhập, vì lý do an ninh của khu vực chung quanh vòng đai.

Có lần chúng tôi được các anh lính Biệt Động Quân đóng quân ở các quận gần căn cứ kể rằng: Các giếng nước của dân địa phương quanh đây, đa số đều được đào rất sâu, nhưng giây gầu lại ngắn. Muốn múc được nước các anh phải nhón chân và chúi đầu xuống giếng. Những ai đi múc nước một mình và đang cố gắng ở trong tư thế này, bất chợt có cô thôn nữ đi ngang, nàng chỉ cần nâng nhẹ mông của anh ta lên, là có thể kết liễu tính mạng một người lính Quốc Gia, mà không phải tốn một viên đạn AK nào cả. Các nàng ở đây có dụng ý "tốt" hay "xấu" chẳng ai biết được, đã nhiều lần mời anh em chúng tôi, những chàng Không Quân trẻ, độc thân, có tiếng là hào hoa và đào hoa, ra miệt vườn và ở lại đêm chơi với các nàng. Điều này nghe hấp dẫn và lãng mạng quá! Nhưng cũng may là anh em chúng tôi không ai dám nhận lời, nếu không thì chúng tôi có thể đã sớm đi chầu Diêm Vương và sau đó chẳng những không được Phi Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu và quan tài được phủ cờ Vàng, mà còn bị phạt hàng chục củ vì tội nhẹ dạ, đã không nghe lời anh Cả cảnh giác ngay từ khi chúng tôi mới đặt chân đến đây.

Tuy nhiên căn cứ Phù Cát cũng có cái hấp dẫn của nó, nếu không thì chẳng có câu " Phù Cát ra dễ, khó về". Mỗi khi phi đoàn có dịp tổ chức dạ hội như ngày sinh nhật của phi đoàn hay tiệc cưới của các nhân viên. Những bông Hồng (made in Sài Gòn) nô nức kéo nhau ra căn cứ Phù Cát và có khi ở lại chơi cả tuần lễ không chịu về. Lý do thì cũng dễ hiểu là các nàng đã được các chàng độc thân nơi đây, nổi danh bay bướm, trổ tài galang, ngày thì đưa đi hái xoài, tối thì đưa đi bắt con cà cuống. Còn tiền thì mời ăn cơm ở Câu Lạc Bộ, khi hết tiền thì đãi mì gói hay gạo sấy cũng vui. Đôi khi các nàng ở lại hơi lâu, các mệnh phụ phu nhân thấy chướng tai, gai mắt, than phiền với các đấng phu quân. Thế là lệnh được ban ra, các anh phải tiễn đưa các nàng, trả về nguyên quán trong vòng 24 giờ.

Trong thời gian đồn trú tại đây, có lần chúng tôi được điều động cho một phi vụ khá đặc biệt, đó là bay đến giải tỏa cho đoàn xe đò đang bị kẹt trên đoạn đường Quốc Lộ Số 1, bởi một toán quân Việt Cộng, đắp mô và chận xét. Sau khi quan sát hiện trường, tôi liên lạc với viên phi công số 2 là chúng tôi sẽ đánh từ Nam lên Bắc, quẹo trái, thả từng trái bom cho một lần đánh. Số hai nhắm thả bên trái, 50 thước cách con đường, còn tôi sẽ thả bên phải, 50 thước cách con đường. Sau khi thi hành xong lần đánh chót, chúng tôi lấy cao độ và bay trở về phi trường, để lại hiện trường hai lằn khói trắng, chính giữ là đoàn xe, trông giống như hình một cái bánh kẹp.

Chiều đến, chúng tôi cứ hai người cùng cưỡi trên một chiếc Honda, ra quán cơm Tư Sa ăn cơm tối. Hôm nay quán rất đông khách, đa số là hành khách của đoàn xe đò đã được chúng tôi giúp cho lưu thông trở lại. Họ nói chuyện với nhau về sự quan tâm và lo lắng của họ khi phòng không của Việt Cộng bắn xối xả lên máy bay của anh em chúng tôi. Vì chúng tôi mặc y phục dân sự nên họ đã không nhận ra chúng tôi là những phi công đã giúp họ. Nghe được câu chuyện "Họ đã không nghĩ đến những hiểm nguy có thể xẩy đến cho chính bản thân họ mà họ lại lo lắng cho tính mạng của chúng tôi". Chúng tôi cảm thấy vui và ấm lòng về tình "Quân Dân Cá Nước" của nhân dân và quân đội Việt Nam Cộng Hoà.

Huy Sơn