Tuesday, January 31, 2017

Nỗi Đau Thời Chiến

Huy Sơn

Từ ngày miền Nam Việt Nam Cộng Hoà bị lọt vào tay Cộng Sản miền Bắc, đến nay đã có rất nhiều buổi hội thảo, tài liệu, nghiên cứu và sách vở bàn về nguyên nhân gần và xa đã đưa đến sự thể đau buồn này. Những câu chuyện tôi ghi lại với hình thức hồi ký, nó chứa đựng những suy nghĩ thô thiển của một cá nhân, hoàn toàn không đại diện cho bất cứ ai, với mục đích là chia sẻ cùng bạn đọc một thời dĩ vãng xa xưa và hoàn toàn không có ý dính líu đến chuyện đại sự của đất nước.

Là một quân nhân sinh sau đẻ muộn, phục vụ trong quân chủng Không Quân, nghành phi hành, đã sống nổi trôi theo vận nước trong suốt khoảng thời gian 1969-1975, đã có cơ duyên được tham dự cùng với các niên trưởng và các bạn đồng nghiệp những phi vụ yểm trợ cho quân bạn một chu vi rộng lớn. Phía Tây-Nam ra tới biên giới Campochia và phía Bắc ra tới thung lũng Thượng Đức. Đã chứng kiến rất nhiều chuyện thương tâm xẩy ra trong cuộc chiến tự vệ của nhân dân miền Nam Việt Nam chống lại ý đồ xâm lăng của quân Cộng Sản. Xưa nay không ai lấy sự thắng bại để luận đấng anh hùng. Người viết chỉ muốn ghi lại ít nhiều chuyện đã qua, nó phản ảnh một phần nào sự khổ đau, sự hy sinh, lòng quả cảm, tính hào hùng và tình yêu trong thời chiến.

Có người gọi phi công khu trục là Thiên Lôi, có nghĩa là chỉ đâu đánh đó, điều này cũng có phần đúng. Chúng tôi được lệnh từ Hành Quân Chiến Cuộc cất cánh, bay đến tọa độ chỉ định, rồi liên lạc với phi công Quan Sát để biết mục tiêu. Thông thường họ bắn ra một trái khói trắng và mục tiêu được điều chỉnh từ vị trí của trái khói đó. Mục tiêu có nhiều loại chẳng hạn như: Phá hủy cầu cống để ngăn chận sự di chuyển của địch quân, phá hủy các ổ pháo kích hay phòng không, thả bom các đoàn xe Motolova chuyên chở địch quân và vũ khí, thả bom để yểm trợ quân bạn mỗi khi có trận giao tranh.

Mỗi phi vụ, chúng tôi đều phải cố gắng gặt hái những thành quả tốt cho quân bạn, bằng cách dùng hết khả năng có được qua những điều học hỏi và kinh nghiệm sẵn có để điều khiển máy bay, thả những trái bom trúng mục tiêu. Điều này nó hoàn toàn lệ thuộc vào sự khéo léo của người phi công. Ngoài ra những trái bom khi rời khỏi máy bay nó còn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố khác như độ chúi, tốc độ của máy bay và tình trạng gió máy bên ngoài, hơn nữa máy bay của chúng tôi đã không được trang bị bom khôn (bom được hướng dẫn bởi tia laser hay satellite). Cho dù với sự cố gắng và tài giỏi của các phi công và kỹ thuật trang bị phi cơ có tối tân mấy đi nữa thì sự bất trắc và rủi ro đôi khi vẫn cứ xẩy ra. Đó là tai họa của chiến tranh. Ðiển hình gần nhất là trận chiến tại Ban Mê Thuật, nơi đã xẩy ra những chuyện rất đau buồn như sau:

Tôi có một người cô, nhà ở gần phi trường tỉnh Ban Mê Thuật. Vào một buổi sáng của ngày thứ hai kể từ khi Việt Cộng tấn công và chiếm đựơc thành phố. Vì nhà có con cháu đông, cô muốn đi ra ngoài mua ít thức ăn dự trữ. Khi ra đi cô dặn dò rất cẩn thận với các con cháu, tổng cộng có đến cả chục người, ở nhà phải khoá chặt cửa và không được đi ra ngoài, sợ bị lạc đạn. Người con gái út của cô, xưa nay vẫn được cô của chúng tôi cưng nhất, nài nỉ xin theo nhưng vẫn bị từ chối mặc dầu thông thường trước đây hay được cô dẫn theo. Khoảng nửa giờ sau, khi cô của chúng tôi trở về thì hỡi ơi! thấy nhà của mình đã bị một trái bom vô tình rơi xuống gần chỗ của anh chị và cháu của chúng tôi đang chờ mẹ và bà về. Kết qủa rất đau khổ là người con gái út của cô đã bị chết.

Một sự kiện khác đã xảy ra rất đau lòng cho đất nước. Hôm đó tôi được xếp trực bay cho phi vụ cuối của buổi sáng. Từ khi tỉnh Ban Mê Thuật mất, mấy ngày nay anh em chúng tôi đều thấp thỏm chờ tới lượt phi vụ của mình được điều động để bay trợ giúp quân bạn chống lại lực lượng địch quân chiếm đóng ở tỉnh lỵ này. Khi kim đồng hồ chỉ đúng 12:00 trưa, chúng tôi vẫn chưa nghe động tĩnh gì từ Hành Quân Chiến Cuộc, chúng tôi nghĩ rằng phi vụ của mình đã bị hủy bỏ rồi cùng nhau lên xe pick-up để đến câu lạc bộ Sĩ Quan dùng cơm trưa, xe vừa nổ máy thì anh sĩ quan trực phi đoàn chạy ra sân gọi giật tôi lại, anh cho biết Hành Quân Chiến Quộc gọi điện thoại cho biết tình hình quân bạn tử thủ trong tiểu khu đang bị nguy ngập, rất cần chúng tôi bay đến trợ giúp và họ hỏi tôi có bằng lòng không (theo thông lệ là phi vụ trực bay cho buổi sáng, nếu đến 12:00 trưa mà vẫn chưa được điều động thì H.Q.C.Q. sẽ hủy nó và điều động những phi vụ chiều từ 12:00 trưa đến 5:00 chiều ), tôi trả lời chấp nhận và cùng anh phi công số hai gấp rút vào phòng lấy dù và nón bay.

Chúng tôi cất cánh và khoảng 20 phút sau có mặt trên vùng trời tỉnh Ban Mê Thuật, lúc đó phi tuần của chúng tôi phải chờ một phi tuần bạn đang sửa soạn bắt đầu vào vòng đánh, mục tiêu thả bom là ngay trên đại lộ Thống Nhất, trước Tiểu Khu khoảng 50 thước. Trong Tiểu Khu có một đơn vị tử thủ của mình được chỉ huy bởi một vị đại tá với danh hiệu là Hồng Hà Zulu. Chung quanh Tiểu Khu đang bị Việt Cộng tấn công bằng chiến thuật biển người với xe tăng và đại pháo. Trong tình thế quá nguy kịch của những anh hùng can trường, quyết tâm giữ vững vòng tuyến, đã can đảm bất chấp mọi bất trắc có thể xảy ra, để chấp nhận cho máy bay thả bom với chu vi qúa gần, 50 thước, cận chiến với quân địch.

Mặc dầu phòng không ở dưới đất bắn lên phi cơ xối xả, người phi công hướng dẫn phi tuần bạn đã bình tĩnh hướng dẫn phương thức thả bom cho phi công số hai, phi tuần sẽ đánh từ Nam lên Bắc, quẹo trái, thả bom từng trái một, nhắm ngay xe tăng trên đại lộ, trái đầu thả né về phía đối diện với tiểu khu là biệt điện của vua Bảo Đại để xem ảnh hưởng gió.

Chúng tôi đang vui và phấn khởi khi thấy những trái bom thả xuống đúng ngay những chiếc xe tăng, cháy bùng bùng, rồi bỗng nhiên nghe phi công số hai báo cáo anh bị kẹt bom (bom không rơi khi bấm nút thả) ở lần đánh thứ ba. Anh phi công hướng dẫn phi tuần chỉ thị viên phi công số hai bật hết các nút để thả hai trái một lượt ở vòng đánh chót rồi tái lập hợp đoàn bay trở về phi trường. Kết quả xui xẻo, bất ngờ đã xẩy ra là hai trái bom đó đã rơi ngay trên nóc nhà Tiểu Khu, mọi vô tuyến đều bị tắt ngủm...

Lịch sử đã cho thấy cuộc chiến nào cũng kéo theo tang thương và đổ vỡ, con người tự hủy diệt lẫn nhau, những nước nhược tiểu thường không được tự quyết định vận mệnh cho mình, đa số đều tùy thuộc vào các cường quốc. Ước mong trong tương lai, tất cả các vị lãnh đạo của các quốc gia khắp nơi trên thế giới luôn sáng suốt giải quyết được mọi bất đồng trên căn bản hoà bình để nhân loại sẽ không bị khổ đau do hậu quả của chiến tranh gây ra...

Huy Sơn



Không Quân Thật

Võ Ý

Hai không quân thi hành một phi vụ liên lạc từ Pleiku về Sài Gòn trên chiếc Cessna U-17. Cất cánh lúc 9 giờ. Một không quân có gia đình bố mẹ vợ ở Sài Gòn, Căn nhà tọa lạc trước cổng Phi Long. Anh chàng ghé nhà, mượn chiếc Honda 50 phân khối của bố vợ, ghé hậu trạm chở người bạn ra phố và tiện mua ít món cần dùng mang về Pleiku. Dĩ nhiên sắc phục của hai chàng là áo bay, mang cấp bậc và mang cả "xéng" (1) nữa! Cả hai đều có tí ria mép, trông cũng điệu nghệ và oai phong ra phết.

Trời Sài Gòn tháng 10 năm 1972 trong xanh và đẹp mơ màng tô điểm những cụm mây thu bảng lảng. Phố Sài Gòn sáng chúa nhật lộng lẫy nhộn nhịp các cửa hàng người mua sắm với những tà áo màu tha thướt. Chiếc xe Honda 50 phom phom đưa chai chàng phi công 'danh tiếng muôn đời' miền dơn dã, chóa ăn đá, gà ăn đất, về đô thành thưởng ngoạn vẻ cao sang đài các chốn phồn hoa, cho bõ những ngày căng thẳng vì đạn pháo kích, báo động một trăm phần trăm.

Bỗng một tiếng tu huýt vang như xé tai:

- Chào hai vị, chúng tôi ban Tuần Cảnh Đô Thành, xin hai vị cho xem sự vụ lệnh. Thiếu úy tuần cảnh lễ độ hỏi, sau khi đã làm thủ tục chào kính.

Nét mặt hai anh chàng hơi cáu, nhưng cũng đành trình phi vụ lệnh cho viên sĩ quan tuần cảnh.

- Xin hai vị cho xem giấy chứng chỉ tại ngũ.

Khi xem chứng chỉ tại ngũ xong, viên sĩ quan Tuần cảnh đòi xem giấy phép mang súng. Đến nước này, hai chàng phi công bắt đầu bực dọc:

- Thiếu úy đã xem chứng chỉ tại ngũ, đã xem phi vụ lệnh. Thiếu úy phải biết chúng tôi là ai rồi, tại sao thiếu úy còn lôi thôi?

Viên sĩ quan tuần cảnh vẫn nhỏ nhẹ:

- Xin hai vị thông cảm. Đây là nhiệm vụ của tôi. Nếu hai vị không có giấy phép mang súng, thì quyền hạn tôi không giải quyết được. Mời hai vị lên xe về đồn có thượng cấp sẽ giải quyết thỏa đáng cho hai vị.

Ôi! thật là rắc rối. Hai chàng phi công thứ thiệt đành phải tiu nghỉu leo lên chiếc GMC 10 bánh về đồn Quân cảnh Lê văn Duyệt. Trước khi về đồn, xe ghé bóp cảnh sát Lê Văn Ken để nhờ cơ quan này 'xử lý' chiếc Honda. Thời may, tại bót cảnh sát, một vị không quân nhờ điện thoại gọi về ông bố vợ là Phụ tá Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh Không Quân, kể rõ câu chuyện tức tối này và nhờ ông bố vợ can thiệp ngay. Khi đã bàn giao xong chiếc Honda cho cảnh sát, xe Tuần cảnh chở hai vị không quân về dồn Quân cảnh để 'thượng cấp giải quyết thỏa đáng.'

Thượng cấp ở đây là một tay Quân cảnh dữ dằn, mang cấp bậc Trung Sĩ. Vừa thấy hai chàng phi công vào, trung sĩ dằn mặt bằng một giọng uy quyền:

- Yêu cầu Thiếu Tá và Đại Úy trao súng đây!

Cầm hai dây súng đặt mạnh lên bàn, trung sĩ nói bâng quơ:

- Đ.M. Thời buổi này thiệt giả không biết đâu mà lường. Mặt còn búng ra sữa mà bày đặt mang lon Thiếu Tá với Đại Úy. Lại bày đặt để râu mép nữa chứ!

Một không quân sôi máu, nhưng cố dằn và nói:

- Trung Sĩ, tôi muốn nhờ điện thoại.

- Thiếu Tá cảm phiền ngồi đó đợi giải quyết. Điện thoại này cấm dùng.

Trong căn phòng này , ngoài hai vị không quân nhà ta, còn có mấy quân nhân khác, đa số đào ngũ, trễ phép, đánh lộn hoặc không giấy tờ tùy thân. Hai chàng ức lắm, nhưng biết làm sao bây giờ? Chàng không quân có gia đình ở Sài Gòn an ủi:

- Xếp yên lòng, tôi đã gọi cho ông nhong nhong (2) của tôi rồi.

- Gọi lúc nào?

- Gọi lúc đưa xe Honda vào bót Lê văn Ken.

Ba mươi phút sau, một xe Quân Cảnh Không Quân chạy đến đồn Quân Cảnh Lê Văn Duyệt. hai chàng Quân cảnh Không quân cao lớn, oai vệ, bước vào gặp tay trung sĩ trực:

- Tôi Thượng Sĩ X..., xác nhận hai vị này là sĩ quan Không quân. Chúng tôi đến để lãnh họ về.

Tay trung sĩ cười giả lả:

- Thượng sĩ thông cảm, đó là nhiệm vụ của em.

Thưa độc giả, hai vị không quân mắc nạn đó là tôi, Võ Ý, và cố thiếu tá Lê Văn Luận, nguyên trưởng phòng hành quân Phi đoàn 118 Bắc Đẩu Pleiku, con rể bố già Nguyễn Văn Tích, nguyên Phụ Tá Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Không Quân vào thập niên 70 thì phải? Lê Văn Luận, mỹ danh Luận Sún, ra khỏi tù năm 85, vượt biên và mất tích sau đó. Vợ con Luận còn ở lại Việnam, cư xá Thanh Đa. (Tôi không rõ là bố già đã bảo lãnh con gái và cháu ngoại qua chưa?). Còn bố già Nguyễn Văn Tích, gần 80 niên kỷ mà vẫn cứ gân! Chắc chư vị còn nhớ cái gân của bố bàng bạc trong 'Thư đòi khiếu nại hiệu chính của lão tiền bối Tích già' đăng trên Lý Tưởng Xuân Giáp Tuất 1994.

Gần 25 năm qua, viết lại chuyện này để tưởng nhớ một cánh chim thật sự 100 % phi công Lê Văn Luận. Luận cũng là một con ngựa chứng, một loại cam rất chua ở miền Nha Trang cát trắng, nhưng lại ngọt ngào ở cái xứ gió lạnh mưa sình. Cầu mong cánh chim Lê Văn Luận bay mãi trong bầu trời thênh thang đầy trăng sao và đầy thông cảm yêu thương. Và cũng gần 25 năm qua, nay mới có dịp cảm tạ bố già Nguyễn Văn Tích và hai vị Quân Cảnh Không Quân cao lớn, đẹp trai, đã lãnh chúng tôi ra khỏi đồn quân cảnh tức hộc máu kia!

Ôi! quả báo! Quả báo! Chắc kiếp trước ta có bắt giam người; nên kiếp này người mới bắt giam ta. Ôi! quả báo! quả báo!

Võ Ý

(1) tiếng lóng KQ ám chỉ 'súng lục'
(2) tiếng lóng KQ ám chỉ bố vợ

Võ Ý, sinh nắm 1940 tại Đà Nẵng. Nhập ngũ 1960, xuất thân Khóa 17 trường Võ bị Đà Lạt, chuyển sang KQ, ngành phi hành, hoa tiêu quan sát. Từng là Chỉ Huy Trưởng Phi đoàn 118 Bắc đẩu, Sư đoàn 6 KQ (VNCH). Thơ và truyện đăng trên tập san Lý tưởng và Cánh thép. Năm 1992, thuộc diện H.O. qua Hoa Kỳ. Năm 2003, xuất bản tác phẩm đầu tiên: Lý Lịch Dọc Ngang Của Thảo (tạp văn) do Cội Nguồn xuất bản, San Jose, U.S.A., 2003, sách dầy 386 trang.

(Biên tập chú thích).



Friday, January 27, 2017

Biên Bản Buổi Họp Lần 3

Biên Bản Buổi Họp (Lần 3) BTC Hội Ngộ SĐ6KQ


(Ngày 15 tháng 1 năm 2017 lúc 12:30pm, tại tư gia KQ Võ Ý)

I/ Thành Phần Tham Dự: 10 người. Gồm các KQ sau:

KQ Võ Ý, KQ Lê tuấn Đạt, KQ Nguyễn trọng Lễ, KQ Trần Vê, KQ Nguyễn Thành Trung (Mọị), KQ Trần Duy Đức, và KQ Đỗ Văn Khanh, KQ Tiêu Hồng Phước, chị Giang Thanh (phu nhân Lạc Long Nguyễn Ngọc Đỉnh), chị Thu Nguyệt (phu nhân Bắc Đẩu Đinh Đức Bản)

II/ Những Công Việc Đã Hoàn Tất:

  1. Tính đến hôm nay, Số người đã ghi danh là 306 người. BTC bắt đầu nhận tiền Vé vào cửa.
  2. Ban nhạc: Trung Nghĩa, $1,300.00
  3. Ca sĩ: Hồ Hoàng Yến, Diễm Liên, Tấn Đạt, (chị Giang Thanh mời band và ca sĩ)
  4. Đoàn trống Thiên Ân, (do hai ân nhân thuộc PĐ 229 & PĐ 530 bảo trợ - $600). Nhờ Sáu & Khanh ký contract với Thiên Ân.
  5. Vé vào cữa: Gấu đen Nguyễn Công Vượng design. BTC sẽ in 600 vé và 100 Thiệp Mời (sau Tết)
  6. Quà cho các Quả phụ và MTQ: KQ Lê Văn Sáu đã order 200 cái Mugs có in logo SĐ6KQ. Tặng quả phụ và MTQ khoảng 30 Mugs. Số còn lại phân phối đều trên bàn với giá $5.00/cái. Đã đặt cọc $200.00
  7. Áo dài đồng phục màu xanh cho Ban Tiếp Tân : 17 cái, (do chị Giang Thanh ủng hộ)
  8. Flyer & Poster nếu có sẽ do chị Giang Thanh bảo trợ. Flyer do Gấu Đen Nguyễn Công Vượng trình bày.
  9. Slide show: sẽ chiếu từ 6:00PM to 7PM do Nguyễn Thành Trung (mọi) đảm trách
  10. 20 folders để các bản nhạc đồng ca (chị Giang Thanh ủng hộ folders, Trần Duy Đức lo in FONT CHỮ TO các bản nhạc đồng ca)

III- Chương Trình Tổng Quát (dự trù):

  1. Khai Mạc (7PM-7.30PM)
    • Chào cờ Việt Mỹ & Lễ tưởng niệm đồng đội.
    • Đồng ca Không Quân VN Hành Khúc
    • TBTC tuyên bố khai mạc
    • Đoàn trống Thiên Ân biểu diễn.
  2. Chào mừng Quan khách & Đồng đội phương xa (7.30PM-7.45PM)
    • Cố vấn BTC, NT NHT, phát biểu
    • Đồng ca Bài Ca Hội Ngộ SĐ6KQ
  3. Vinh danh & Tặng quà các bà quả phụ (7.45PM-8.00PM)
    • Đồng ca Sư Đoàn 6 KQ Hành Khúc (PĐ 229)
  4. Dạ tiệc & Văn nghệ Chủ đề (8.00-PM-9.10PM)
  5. Dạ Vũ (9.10PM- 11.15PM)
  6. Bế Mạc – Đồng Ca Bài Ca Hội Ngộ SĐ6KQ

IV- Phần Dạ Vũ:

(do Ban nhạc, ca sĩ chuyên nghiệp & ca sĩ đã ghi danh trong trang blog SĐ6KQ). Chị Giang Thanh điều hợp phần Dạ vũ. Các MCs Trương Minh Ẩn (530), Ng Đình Minh(229) Thu Nguyệt (118) giới thiệu chương trình.

V- Phân Chia Công Tác:

  1. Chuẩn bị nhận tiền vé, sổ sách. Lo bì thư đặt trên mỗi bàn (để nhận tiền Mugs): Đỗ Văn Khanh
  2. Sắp xếp chỗ ngồi: KQ Trương Văn Huệ, Lê Văn Sáu, Võ Ý
  3. Slice show: KQ Nguyễn thành Trung (mọi)
  4. MCs: NT Nguyễn Cầu (Kiểm Báo), NT Đinh Sinh Long, LL Nguyễn Đình Minh, TD Trương Minh Ẩn, chi Thu Nguyệt (118)
  5. Trách nhiệm phần Khai mạc: NT Đinh Sinh Long & Ng Đình Minh. Giới thiệu Quan khách từ phương xa: NT KQ Nguyễn Cầu ( Khóa 53 kq) & Trương Minh Ẩn
  6. Ban tiếp tân: Lê Tuấn Đạt Phan khánh Vân, Vũ đức Định, Tiêu hồng Phước, Nguyễn văn Hồ, Ngô thế Khanh, Võ Ý, Lê Văn Sáu, Nguyễn trọng Lễ. (Gồm các KQ trong BTC và các bà xã)
  7. Banner Sân khấu: Trương Minh Ẩn (PĐ 530) tự design và thực hiện khi anh về Cali trước một tuần. Rất cần các đồng đội phụ giúp anh Ẩn.
  8. Ban TC (sẽ là Ban hợp ca) sẽ tập dợt 3 bài hát (KQ Hành Khúc, SĐ6KQ HK, Bài Ca Hội Ngộ). Ngày giờ và địa điểm tập dợt sẽ cho biết sau.
  9. Quay DVD và hình ảnh: chi Thu Nguyệt giới thiệu anh Tiến, đã OK.
  10. Nến đốt sẵn mỗi bàn một cây từ 6.30pm (trước giờ khai mạc): Tiêu Hồng Phước mua và đốt.
  11. Chụp hình: KQ Trần Vê.
  12. Mong các đơn vị gởi danh sách và địa chỉ các quả phụ liên hệ để BTC gởi Thiệp Mời.

VI- Mạnh Thường Quân:

  1. Lạc Long Huỳnh Công Đáng. (ủng hộ BTC $1000.00 mướn full band)
  2. Chị Thu Đào Hội Phố Núi Pleiku. (Ủng hộ mỗi bàn một chai rượu vang)
  3. Chị Giang Thanh (17 áo dài đồng phục cho Ban Tiếp Tân & 20 floders & Vũ đoàn Việt Cầm)
  4. Phi Đoàn 235 ($200 chi phí hòa âm nhạc phẩm Bài Ca Hội Ngộ SĐ6KQ, sáng tác của Trần Duy Đức cho Hội Ngộ)
  5. 01 Lạc Long và 01 Thái Dương ẩn danh (bảo trợ Đoàn trống Thiên Ân, $600)

VII- Linh Tinh:

  1. NT Võ Ý đề nghị, sau ngày Họp Mặt nếu còn dư sẽ gởi vào quỹ LLĐLR của Hội AHKQ VNCHTC. Nếu thiếu thì BTC...bù vào!
  2. Chỉ nhận ghi danh hát 10 người đầu tiên và mỗi người trình diễn 1 bài mà thôi.
  3. Ghi danh tham dự tối đa là 520 người (+3 bàn reserves).. Sẽ khóa sổ chừng nào đạt con số đó.

Buổi họp kết thúc lúc 3:15 PM

Thư ký ghi chép:
KQ Đỗ Văn Khanh



Thursday, January 26, 2017

Nhạc Xuân

Chúc Mừng Năm Mới



Mộng Lành

Sáng tác: HoàngTrọng & Hồ Đình Phương

Hát: Loan Châu




Em Yêu Dấu

Sáng tác: Hoàng Khai Nhan

Hát: Thái Hiền




Mùa Xuân Nghiêng Lá

Ý thơ: Đặng Văn Lành

Nhạc: Hoàng Khai Nhan

Hát: Vân Khánh




Hương Xuân

Sáng tác: Ngô Thanh Nam

Hát: Diệu Hiền




Đêm Xuân

Sáng tác: Phạm Duy

Hát: Sĩ Phú




Xuân Tha Hương

Sáng tác: Phạm Đình Chương

Hát: Ngọc Hà




Anh Cho Em Mùa Xuân

Thơ: Kim Tuấn

Nhạc: Nguyễn Hiền

Hát: Hồ Hoàng Yến




Mùa Xuân Đầu Tiên

Sáng tác: Văn Cao

Hát: Hiền Thục





Tuesday, January 17, 2017

Chuyện Năm Xưa

Huy Sơn

Cái mộng trở thành phi công nó đã ăn sâu vào tâm khảm của tôi từ lúc nào thì tôi không biết, nhưng có điều mà tôi nhớ rõ là ngay từ thủa nhỏ, lúc đó vào ngày sinh nhật thứ năm của tôi, tôi rất mừng rỡ khi nhận được món quà từ bà cô. Đó là chiếc máy bay nhỏ chạy bằng giây cót. Tôi rất thích thú và quý nó vô vàn. Tôi hãnh diện với đám bạn trong xóm vì không ai có được món đồ chơi giống như của tôi.

Những năm đầu sau ngày tôi theo gia đình di cư vào Nam, năm 1954, mỗi lúc vào dịp lễ Trung Thu là tôi đều được ba tôi giúp làm một cái lồng đèn hình tàu bay để rước, khi mà các bạn lối xóm chỉ có đèn xếp mà thôi. Tôi dẫn đầu đám trẻ, nâng cao chiếc lồng đèn máy bay, tuần tự đi qua nhiều ngõ hẻm trong xóm. Trông nó oai làm sao ấy...

Cũng vì thế, đến khi có lệnh động viên là tôi sẵn sàng xếp bút nghiên xin gia nhập vào quân chủng Không Quân ngay lập tức, chẳng hề do dự. Thời gian sống trong quân ngũ, tôi có cơ hội quen thêm nhiều bạn mới. Tôi quen được họ là nhờ những lần đi thụ huấn các khoá học khác nhau chẳng hạn như khoá căn bản quân sự Quang Trung, khoá Sinh Ngữ Quân Đội, và khoá học bay ở Hoa Kỳ. Đến năm 1971, sau khi tốt nghiệp để trở thành phi công tác chiến A-37, tôi hồi hương và được phục vụ tại sư đoàn IV và sư đoàn VI Không Quân. Tuy chúng tôi đồn trú rải rác trên khắp vùng chiến thuật nhưng thỉnh thoảng cũng có cơ hội gập lại nhau ở những nơi như hậu trạm, trong lúc chờ đợi những chuyến bay hay những lần đi biệt phái. Những lần gập gỡ này tuy ngắn ngủi nhưng nó cũng cho chúng tôi có cơ hội, tay bắt mặt mừng và hỏi han nhau đủ thứ.

Vào đầu năm 1972 tình hình chiến sự càng lúc càng trở nên sôi động, tin dữ cứ lần lượt kéo đến, lúc có tin người bạn bị bắn rơi ở chiến trường An Lộc của phi vụ tiếp tế, lúc ở trên bầu trời Chu Pao, Quảng Trị hay Thượng Đức của những phi vụ yểm trợ cho quân bạn. Một lần đi và không bao giờ trở lại hay đi không ai tìm xác rơi... Những lúc như thế tôi hay xà vào một quán cóc, uống cho vùi đầu, uống thương tiếc những người bạn vắn số đã nằm xuống hy sinh cuộc đời quá son trẻ của mình để bảo vệ mảnh đất tự do.

Suốt khoảng thời gian sống đời tỵ nạn, cứ mỗi khi đến tháng Tư là lòng tôi lại chùng xuống, bồi hồi nhớ đến những người bạn cũ, cùng một binh chủng, một thời đã cùng chiến đấu bên nhau. Trong đó có một người mà tôi muốn nhắc đến, tên là Tâm. Anh chỉ hơn tôi một tuổi nhưng trông rất già giặn, nên anh em đặt cho biệt hiệu "bác Tâm Già". Tôi quen anh vào dịp ra Nha Trang thụ huấn giai đoạn 2 quân sự, anh đã cho tôi tá túc cùng phòng của anh trong cư xá Sĩ Quan Độc Thân. Khi ấy anh là hoa tiêu tác chiến A-37, hàng ngày vào phi đoàn trực bay còn tôi phải đi học quân sự. Khi xong xuôi mọi việc, chúng tôi rủ nhau ra phố ăn cơm tối. Đêm đến, trước khi ngủ chúng tôi thường trò chuyện và tâm sự với nhau. Nhờ vậy tôi được biết khi xưa anh sinh ở Nam Định và bị mồ côi từ lúc 4 tuổi, cha mẹ anh đều bị sát hại qua lần đấu tố diệt tư sản của Việt Cộng. Anh đã được một gia đình nhận về nuôi và họ đã đưa anh vào Nam theo đợt di cư năm 1954. Gia đình ân nhân của anh chỉ sinh được một người con gái, thua anh bốn tuổi. Cha mẹ của cô làm nghề buôn bán, hàng ngày rất bận bịu với công việc cho nên anh đã thay thế họ, dành rất nhiều thì giờ chăm sóc cô em gái này.

Một buổi chiều tôi đã về cư xá trước anh, rồi sửa soạn để khi anh về chúng tôi cùng nhau ra phố ăn cơm tối. Một tiếng đồng hồ trôi qua vẫn chưa thấy anh, tôi đâm ra lo lắng không biết có chuyện gì xẩy ra, tôi ra ngoài hướng mắt nhìn phía phi đạo xem có phi vụ nào về đáp không.

Chừng độ năm phút sau bỗng có một phi cơ A-37 trở về, lúc này nỗi lo âu trong lòng tôi càng gia tăng bởi vì thông thường một hợp đoàn phải có tối thiểu là hai chiếc trở lên, giờ đây chỉ có một chiếc thôi thì chắc chắn phải có chuyện chẳng lành.

Đang suy nghĩ vẩn vơ thì anh bạn của tôi xuất hiện và đậu xe trước chỗ tôi đứng. Nét mặt anh trông tái mét. Tôi vội hỏi xem có chuyện gì đã xẩy ra. Anh cho biết là anh phải bỏ tàu ở trên phi trường Pleiku và đã về cùng tầu với phi công số hai. Tôi khuyên anh hãy tạm quên chuyện đó và giao chìa khoá xe cho tôi. Tôi chở anh ra phố, đến một quán nhỏ, uống để cố quên đi những điều không may đã xẩy ra cho anh.

Sau một vài ly rượu anh tâm sự, khi thi hành xong phi vụ yểm trợ cho quân bạn tại vùng tam biên (VN-Lào-CB), phi tuần của anh phải đáp xuống phi trường Pleiku để lấy nhiên liệu trước khi bay về Nha Trang. Khi phi cơ chạm bánh, anh đạp thắng thì thắng không ăn, phi cơ cứ tiếp tục chạy gần cuối phi đạo, lúc đó anh không còn đủ đường bay cho phi cơ cất cánh lên lại, trước mặt là một vực thẳm, anh vội nâng cần emergency dở bánh đáp lên cho máy bay xập xuống, máy bay tiếp tục trườn ra khỏi phi đạo và khi chỉ còn vài thước là tới miệng vực bỗng nó dừng lại.

Nghe vậy tôi rất mừng cho anh đã thoát nạn. Nét mặt anh vẫn đăm chiêu và tiếp tục kể, cùng lúc đó một ý nghĩ thoáng qua trong đầu anh là cứ để tầu băng xuống vực thẳm vì trong lòng anh đang bị day dứt bởi nỗi buồn khiến anh không còn muốn sống nữa. Người con gái của ông bà ân nhân đã nuôi anh trước đây nay sắp lấy chồng! Bấy lâu nay anh thầm yêu cô ta nhưng không dám thưa chuyện này với cha mẹ của cô, sợ bị từ chối. Tuy họ chưa một lần chính thức nói nhận anh làm con nuôi nhưng họ đã đối xử với anh không kém gì đối với người con ruột của họ. Mối tình đơn phương đã được ấp ủ bao lâu nay qua sự gần gũi và chăm sóc của anh với cô ta. Nó hao hao giống như câu chuyện tình yêu của Lệnh Hồ Xung yêu con gái của Nhạc Bất Quần là cô Nhạc Linh San trong truyện kiếm hiệp của tác giả nồi tiếng Kim Dung.

Bẵng độ khoảng ba năm sau ngày chúng tôi chia tay, bất ngờ tôi nhận được tin anh bị bắn rơi trên vùng trời lửa đạn, anh bị bắt và chết để lại người vợ trẻ và một con thơ.

Giờ đây khi nghĩ về anh, tôi tin là anh đang có một đôi cánh nhiệm mầu thay thế chiếc áo cũ khổ đau, bay tung tăng khắp nơi trong bầu trời vô tận... Tôi xin thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ đến anh, một người bạn đồng nghiệp, thân thương đã Vị Quốc Vong Thân và cầu mong cho vợ và con của anh luôn gập nhiều may mắn.

Huy Sơn



Friday, January 13, 2017

Bún Bò Bà Đào - Đà Nẵng

Trần Đình Phước

Kính dâng lên hương hồn Ông bà Đào. Kính tặng các chiến hữu đã từng phục vụ ở Trung tâm 2 KB - Sơn Trà - Panama, các chíến hữu thuộc Sư Đoàn 1 Không Quân và Quân Đoàn 1. Đặc biệt, các bà con Quảng Nam Đà Nẵng thân yêu của tôi.

Đặc biệt, thân gửi các bạn đã từng phục vụ ở nơi đây như: Nguyễn Thế Long, Trần Công Anh Dũng, Nguyễn Văn Thư, Trần Văn Hưng, Nguyễn Hữu Huấn, Lê Đình Tường, Nguyễn Xuân Bách, Trần Nguyên Báu, Nguyễn Văn Chánh, Nguyễn Hồng Châu, Đoàn Quí Trọng, Hứa Phú Cường, Trần Hữu Đại, Phạm Trần Dương, Nguyễn Cao hoàng, Dư Xương Hùng, Đỗ Quốc Hùng, Nguyễn Thiện Kim, Nguyễn Văn Biên, Nguyễn Văn Quí, Trương Hữu Trung, Kiêm Long, Trương Văn Tập, Phạm Công Tuấn, v.v... Các bạn đã mất tại Sư Đoàn 1 KQ: Nguyễn Đức Hân, Đinh Như Hoàng, Hoàng văn Vũ, Nguyễn Phước Đức. Xin lỗi nếu tôi kể còn sót vì thời gian đã lâu quá rồi!

TĐP

Trước năm 1975, Đà Nẵng có rất nhiều nhà hàng, quán ăn. Nhưng khi nói đến món bún bò, thì những người có tâm hồn ăn uống chắc chắn cũng đôi lần ghé thăm quán bún bò của Bà Đào. Có lẽ lâu ngày thành thói quen, nên bà con gọi tên quán là "Bún Bò Bà Đào?" Đơn vị tôi đóng ở mãi tận Sơn Trà. Muốn đi sang Đà Nẵng phải đi bộ hay quá giang xe nhà binh ra ngã ba Sơn Trà, sau đó đón xe Lam hay xe Đò đến bến phà An Hải. Từ đây đi phà sang bên kia sông Hàn mới tới được phố Đà Nẵng. Mặc dù, cách xa nhiều cây số, phải mất khá nhiều thời gian, nhưng tuần nào tôi cũng ghé Bún Bò Bà Đào một, hoặc hai lần thì mới mãn nguyện. Cho dù, hôm đó trời mưa to, gió lớn, bão bùng cũng không bao giờ tôi lùi bước trước nguy nan. Đơn giản một điều “chỉ vì ghiền bún bò.”

Quán Bún Bò Bà Đào nằm trên đường Trần Bình Trọng, gần Café Rừng với mấy cái mả đá màu nâu ở đầu đường. Quán chỉ bắt đầu bán vào khoảng 3 giờ chiều. Thực khách ghiền bún bò đến quán thường phải đợi rất lâu, vì lúc nào cũng đông khách đứng sắp hàng chờ. Nếu không chờ được thì đi các quán khác cũng nằm gần đó, nhưng không ngon bằng.

Bà Đào có nét lai Ấn Độ, các cô con gái của bà cô nào nhìn cũng đều có nét duyên dáng, dễ thương. Trong số đó có một em tên Đ.. là đẹp nhất, theo con mắt thơ ngây, chỉ biết nhìn thôi, chẳng biết gì của tôi! Lúc đó em Đ.. đang học lớp Đệ Tam Trường Trung Học Tư Thục Phan Thanh Giản, tọa lạc kế bên trường Trung Học Công Lập Phan Chu Trinh. Nghe nói, em Đ.. bây giờ đã lập gia đình.

Tháng 10, năm 1992. Trước khi rời Sài gòn đi định cư Hoa Kỳ theo chương trình H.O., tình cờ, tôi gặp em ở gần Bệnh Viện Nguyễn Văn Học, Bình Thạnh (Gia Định). Hai đứa chỉ kịp vẫy tay, vẫy tay chào nhau một lần cuối, không kịp ngừng lại để ngỏ một lời từ giã mà có thể không bao giờ còn gặp lại.

Nổi tiếng nhất của quán Bún Bò Bà Đào là món giò Móng. Tôi đã chết mê, chết mệt vì nó. Đặc biệt là món ớt sa tế và ớt ngâm giấm, mà không nơi nào có thể sánh bằng. Tô bún bò nóng hổi, vừa ăn, vừa húp, vừa thổi, vị nồng nồng, cay cay làm nước mắt chảy ràn rụa. Nhất là những hôm trời se se lạnh, có một chút mưa bụi vào những tháng cuối năm, hay những ngày mưa dầm dề lê thê, lếch thếch thì thật tuyệt vời!

Đôi khi trong bóp hết tiền, cầm thẻ lương chưa được, hoặc Sĩ Quan Thủ Quỹ Sư Đoàn 1 Không Quân là Trung úy HBT, hay Sĩ Quan Kế Toán là Thiếu úy TVH, biệt danh “Thượng Toạ Thích Tâm Cự” có chuyện bực mình hay bị xếp xì nẹt sẽ không chịu phát sớm. Lúc đó giả bộ gương mặt mếu máo đóng kịch năn nỉ xin bà cho ăn thiếu. Vậy mà lúc nào Bà cũng vui vẻ chấp thuận cho một tín đồ trung thành bún bò, mà không thắc mắc hỏi thêm gì cả!

Thường thường mỗi tô chỉ được trang điểm một cái móng trên mặt. Riêng tôi, thì được bà luôn luôn cho ba, hoặc bốn móng, nhưng chỉ tính giá bình thường. Có lẽ bà thương hại cho một tín đồ bún bò đã bỏ công khổ nhọc lặn lội trèo xe Lam từ Sơn Trà, vượt bến đò Sông Hàn, và đi lô ca chưn mấy chục phút mới đến được quán của bà?

Tôi tu ở núi Sơn Trà gần 3 năm. Tính tới, tính lui trên hai bàn tay thì tôi đã thưởng thức món bún bò giò móng không biết bao nhiêu lần! Khi có lệnh thuyên chuyển về Sàigòn, tôi cứ lưỡng lự, vì nghĩ rằng sẽ không còn được tiếp tục thưởng thức Bún Bò Bà Đào nữa! Cũng như mỗi lần ngồi ăn bún bò, được ngắm các con gái bà mà biết bao chàng trai tứ xứ bị ngây ngất, trong số đó có các bạn khoá 7/68 KQ và tôi. Cuối cùng, tôi cũng phải giã từ Đà Nẵng thân yêu mà trong lòng bịn rịn, với một nỗi buồn khôn nguôi. Không biết là tại hương vị bún bò, hay tại nhớ các con gái xinh đẹp của bà?

Năm 1979, khi được về phép từ Nông Trường Đức Huệ, Long An nằm giáp biên giới Cambodge. Tình cờ, tôi gặp bà Đào và em Đ.. đang đứng ở bến xe đò Chợ Lớn Mới. Tôi vội chạy đến chào. Dù đã lâu bà không gặp lại tôi, nhưng bà nhận ra tôi ngay; lúc này da dẻ tôi đen đúa, ẩm mốc mùi phèn, tóc tai thì dài bờm xờm, lưng đeo balo dính đầy bùn đất, hai tay khệ nệ hai cái “LEN”, là dụng cụ để đào kinh và đào đất đắp nền nhà. Nhìn tôi giống y chang tài tử đóng vai chánh trong phim “Zimbo” về thành.

Bà cho biết bây giờ đã giải nghệ bún bò, chuyển sang đi buôn chuyến Đà Nẵng và Sài gòn. Bà cũng vừa mới tạm nghỉ đi buôn vì bị thương, sau tai nạn lật xe đò ở Cam Ranh. Tôi cho bà địa chỉ nhà tôi và chào từ giã mẹ con bà.

Thỉnh thoảng bà và em Đ.. vào Sài Gòn giao và mua hàng đều ghé nhà thăm tôi. Lúc này tôi đã là “Thầy Giáo, Tháo Giầy” bất đắc dĩ. Dạy học để che mắt thế gian, cho thiên hạ không để ý mình! Mỗi lần ghé thăm, bà thường cho tôi mấy chục tré. Đây là một đặc sản của Đà Nẵng, giống như nem Thủ Đức, nhưng có bỏ thêm riềng thái chỉ, trộn nhiều tỏi, được gói vuông vắn trông rất đẹp mắt. Trước năm 1975, Tré Bà Đệ sản xuất ở số 53 Nguyễn Hoàng, gần Bệnh Viện Đa Khoa Đà Nẵng nổi tiếng là ngon nhất, với hương vị đặc trưng không nơi nào bắt chước được.

Bà kể cho tôi nghe khoảng giữa tháng 3 năm 1975. Trong lúc tình hình chiến sự Vùng 1 đã bắt đầu giai đoạn căng thẳng. Nhờ quen biết với một Trưởng Phi Cơ của một phi đoàn vận tải thường biệt phái ra Đà Nẵng công tác, và cũng là thực khách thân quen với gia đình bà, nên vị sĩ quan này đã giúp một nửa gia đình bà theo phi cơ AC-119K vào Sài Gòn trước. Bà liền thuê một căn nhà ở vùng Lăng Cha Cả để tạm trú; nhưng sau cùng bà quyết định không di tản ra nước ngoài và quay trở về Đà Nẵng sum họp cùng toàn thể gia đình.

Bà cùng các con tiếp tục khôi phục lại quán bún bò. Quán chỉ mở được một thời gian ngắn, phải tự động dẹp, vì tình hình kinh tế khó khăn, bà con phải lo chạy gạo, kiếm cơm hàng ngày chưa đủ thì làm sao dám ăn với uống ở ngoài được; chưa kể thuế má cao và nhiều phức tạp khác, nên bà và các con chuyển sang đi buôn chuyến Đà Nẵng & Sài Gòn và ngược lại.

Gần Tết năm Nhâm Tuất 1982, bà và em Đ.. vào Sàigòn để giao hàng và mua sắm. Không hiểu sao lần này bà ghé nhà tôi lâu hơn? Tình cờ bà hỏi tôi: “Cháu định bao giờ mới lập gia đình. Khi nào cháu lấy vợ nhớ báo cho bác biết, để bác mừng nghen. Im lặng một hồi lâu. Tôi trả lời bà: “Thưa bác, cháu không hộ khẩu, không nghề nghiệp, còn tương lai đang ở cuối nẻo đường hầm thì làm sao nuôi nỗi vợ con, mà bày đặt đám cưới, với đám xin. Ai mà gả con cho cháu là họ muốn làm khổ đời con gái họ. Có lẽ cháu ở vậy suốt đời thôi!” Đến đây! Bà không nói gì thêm, kéo tay em Đ.. đứng dậy và chào tôi ra về.

Đó cũng là lần cuối tôi gặp bà.

Tôi muốn viết thêm nhiều tình tiết éo le nữa, nhưng xin tạm dừng ở đây. Theo lời các bà con Đà Nẵng ở San José cho biết. Bà đã mất cách đây vài năm. Họ cũng cho biết thêm, một trong các con gái của bà hiện đang tiếp tục nối nghiệp bún bò. Tôi tin rằng dù chất lượng ngon đến đâu, cũng không bao giờ còn đầy đủ hương vị đậm đà như thuở nào.

Mỗi lần ở San José có họp mặt đồng hương Quảng Nam - Đà Nẵng, tôi đều đến tham dự, tự coi mình là đứa con thân yêu của Đà Nẵng. Tôi xem Đà Nẵng là quê hương thứ hai của tôi. Một nơi đã cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp. Đặc biệt, món giò móng của Bún Bò Bà Đào, cũng như tuổi trưởng thành của tôi cũng bắt đầu từ nơi đây. Hy vọng một ngày rất gần, tôi sẽ về thăm Đà Nẵng và sẽ tìm mọi cách để tìm gặp các con của bà. Chắc giờ đây có người đã lên chức bà nội hay bà ngoại? Tôi muốn được đốt một nén nhang để nhớ đến bà, một bà Mẹ Đà Nẵng dễ thương, mà món giò móng độc đáo do bà nấu. Tôi không bao giờ tìm lại được ở bất cứ nơi chân trời góc bể nào, cho dù tôi có tiền muôn, bạc biển…

Cứ hai năm, tôi về Sài Gòn một lần để thăm thân mẫu tôi đã ngoài 90 tuổi đang sống ở đây. Bà nằm một chỗ đã lâu, sau khi bị té gãy xương hông. May mắn, bà được các con cháu gần bên thay phiên chăm sóc, lo lắng, nên tuổi già cũng phần nào đỡ tủi thân. Mỗi lần về thăm, má tôi dường như trông khoẻ hẳn ra.

Về Sài Gòn lần này, ngoài việc thăm thân mẫu, tôi nhất quyết đi Đà Nẵng như đã dự tính. Thứ nhất là thăm lại môt nơi đã mang đến cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên trong đời quân ngũ. Thứ hai là được đốt một nén nhang trước bàn thờ bà Đào như lòng đã tự hứa. Tuy nhiên, về đến nơi bề bộn đủ thứ việc, do đó tôi không thể rời Sài Gòn được, trong lòng tôi rất áy náy, bức rức vì không thực hiện đúng như lời đã hứa.

Còn một tuần trước khi tôi về lại San José. Tôi nhớ hôm đó là cuối tháng 7, năm 2008. Bầu trời Sài Gòn mây mù, u ám, thỉnh thoảng có môt chút mưa bụi rơi nhẹ. Tôi đạp xe đạp rời nhà từ Yên Đổ, Tân Định đến Công Viên Tao Đàn để thăm vài Trưởng HĐVN một thời sinh hoạt với tôi, nhân tiện xem các em Hướng Đạo đang sinh hoạt ở đây.

Hướng Đạo là một phong trào giáo dục rất hiệu quả và lành mạnh, mục đích đào tạo thanh thiếu niên trở thành những công dân tốt và hữu dụng cho đất nước. Các Hướng Đạo Sinh biết rèn luyện cho chính bản thân, cũng như giúp ích cho xã hội. Trước năm 1975 từ Sài Gòn đến hầu hết các tỉnh, thành phố đều có các đơn vị huớng đạo sinh hoạt. Một câu nói mà anh chị em Hướng Đạo không bao giờ quên trong đời “Hướng Đạo một ngày, là Hướng Đạo mãi mãi.” Để nhận ra nhau anh chị em hướng đạo chào nhau bằng cách giơ cao bàn tay phải lên, ba ngón giữa thẳng, nhắc nhở Hướng Đạo Sinh về ba điều của lời hứa: “Làm bổn phận đối với Tín Ngưỡng Tâm Linh và Quốc Gia tôi - Giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào - Tuân theo Luật Hướng Đạo”. Ngón tay cái đè lên ngón tay út, ngụ ý rằng người mạnh phải có bổn phận bênh vực, che chở ngưới yếu, kẻ thế cô, người lâm hoạn nạn hoặc đang gặp khó khăn. Ngoài ra, anh chị em Hướng Đạo khi gặp nhau ở bất cứ nơi đâu còn bắt tay trái, vì tay trái là phía của trái tim, để biễu lộ tình cảm thắm thiết, thân thiện giữa tình hướng đạo với nhau và sẵn sàng giúp đỡ nhau khi hữu sự.

Sau ngày 30 tháng 4, năm 1975 Phong Trào Hướng Đạo tại Việt Nam hoàn toàn bị cấm triệt để. Hiện nay, chính quyền không cấm và cũng không cho phép chính thức hoạt động. Các đoàn Hướng Đạo thường tập họp ở các công viên trong thành phố để sinh hoạt vào mỗi Chúa Nhật. Nhìn các em hồn nhiên vui đùa, ca hát, tập thắt gút dây, thực tập truyền tin Morse, Sémaphore, cùng các trò chơi lành mạnh khác, tôi như tìm lại được hình ảnh của mình thời thơ ấu, mà tôi tưởng như đã đánh mất từ lâu.

Tình cờ, tôi gặp một người đứng kế bên. Qua trao đổi vài câu chuyện xã giao, nghe anh phát âm giọng Đà Nẳng, tôi đến bắt tay chào làm quen. Anh cho biết, hiện cùng gia đình đang sống ở Đà Nẵng và mấy hôm nay vào Sài gòn thăm bà chị ruột từ Pháp về, vi bà chị không có nhiều thì giờ ra ngoài nớ. Hôm nay bà chị hẹn gặp ở công viên Tao Đàn, nên đến đây đợi, nhìn thấy các em mặc đồng phục, sinh hoạt ngồ ngộ, nên hiếu kỳ đứng xem cho biết. Sau đó, anh hỏi tôi có biết gì về Đà Nẵng không?

Tôi trả lời anh, ngày xưa tôi đã từng phục vụ gần ba năm ở Trung Tâm 2 Kiểm Báo tức Đài Radar Sơn Trà, Đà Nẵng - KBC 6526, còn được gọi là Panama, Monkey Mountain hay Núi Khỉ, vì nơi đây có rất nhiều khỉ, chúng thường di chuyển từng đàn mấy chục con, đặc biệt là trên mình chúng có những đốm màu xám, nâu, vàng… mà dân địa phương gọi là con Vá Hoàng.

Đơn vị tôi đóng trên núi Sơn Trà. Quanh năm, suốt tháng mây mù bao phủ. Có nhiều con suối nhỏ chảy dài từ trên cao xuống, với những cái tên rất thơ mộng: Suối Tình, Suối Mơ, Suối Mộng, Suối Hẹn Hò, Suối Đa Tuyền, Suối Tiếc Thương. Nghe đồn có đôi tình nhân trẻ yêu nhau say đắm, định nên duyên vợ chồng, nhưng gia đình quyết liệt ngăn cản vì đi xem bói, thấy bói coi không hạp tuổi. Thế là cả hai đã tìm đến đây cùng chết để giữ trọn lời thề chung thủy bên nhau?

Những tháng vào mùa hè, đường đi lên núi phía bên phải là sườn núi với bông Trang nở đỏ rực, còn bên trái là vực sâu, hoa Sim tím mọc ngút ngàn, và trên cao ánh nắng mặt trời xuyên qua những lớp sương mù bay lơ lửng tạo nên một bức tranh thiên nhiên đẹp hữu tình mà các hoạ sĩ, dù tài ba đến mấy cũng không thể nào vẽ được.

Sơn Trà cách Đà Nẵng khoảng hơn 10 cây số đường chim bay. Tuy nhiên, tuần nào tôi cũng đểu ghé Bún Bò Bà Đào để thưởng thức cho bằng được món bún bò đặc biệt này. Chỉ có một lần duy nhất, suốt một tuần lễ tôi phải nằm tử thủ trên núi Sơn Trà vì trận bão Hester thổi qua Đà Nẵng trước sinh nhật tôi một ngày.

Tôi nhớ hôm đó là ngày Thứ Hai 25 tháng 10, năm 1971. Đây là trận bão lớn nhất chưa từng xảy ra trong vòng 27 năm. Trận bão đã gây thiệt hại vô cùng khốc liệt cho thành phố thân yêu của tôi. Nhiều nhà cửa đổ nát hoang tàn, bay cả nóc, cây cối tróc gốc gãy nghẽn cả đường xá, xe cộ không thể di chuyễn được, mọi sinh hoạt hàng ngày bị tê liệt hoàn toàn, nên tôi đành phải nằm tại phòng nấu nước sôi ăn mì kim chi Đại Hàn để tưởng nhớ đến Bún Bò Bà Đào và cầu xin ơn trên che chở cho quán của bà, cũng như bà con Đà Nẵng tránh được thiên tai này.

Anh cười và nói với tôi “Vậy anh là đệ tử trung thành của bà Đào rồi!” Tôi mới nói với anh, dù bây giờ xa Đà Nẵng đã nhiều năm, bước chân tôi đã đi qua nhiều nơi, thưởng thức biết bao món ngon vật lạ trên cõi đời này, nhưng tôi vẫn không thể quên được hương vị đặc biệt của Bún Bò Bà Đào ngày nào.

Tôi hỏi anh có biết bà Đào không? Anh cho tôi biết bà Đào đã mất từ lâu! Nghe đâu khoảng Tháng 2, Năm 2001? Hiện nay cô con gái út của bà đang là chủ một quán bún bò nằm trên đường NCT, thành phố Đà Nẵng. Quán vẫn lấy tên là Bún Bò Bà Đào. Tôi hỏi thêm: “Anh có cách nào giúp để tôi có thể liên lạc được với các con của bà không?” vì tôi không còn nhiều thời gian lưu lại Sàigòn, và có lẽ khó còn dịp nào khác nữa! Anh bảo tôi chờ một chút. Sau đó lấy điện thoại cầm tay gọi ra Đà Nẵng. Vài phút sau, đứa em gái của anh gọi vào cho biết, vừa mới gọi tới quán bún bò và họ cho số điện thoại của một trong các con của bà đang lập nghiệp ở Sài Gòn. Thú thật, tôi mừng vô hạn, tưởng chừng như tìm lại được một báu vật đã thất lạc từ lâu!

Tôi vội vàng cám ơn anh và gọi ngay số điện thoại mà em gái anh vừa cho. Đầu dây bên kia là một giọng nữ. Cô hỏi: “Làm sao tôi có số điện thoại này?” Tôi trả lời:“Tôi muốn nói chuyện với con bà Đào, vì tôi là chỗ thân tình với gia đình bà từ lâu.”

Cô cho biết tên Đ.. Tôi nhận ngay ra một giọng nói rất quen thuộc ngày nào, dù đã nhiều năm xa cách. Tôi giới thiệu tên tôi, nói lên ước nguyện của tôi là muốn được đến đốt nhang trước bàn thờ bà Đào một lần vì nghe bà mất cách đây nhiều năm. Nay có dịp về Sài Gòn, nên phải thực hiện cho được lời đã hứa.

Đ.. cho tôi địa chỉ ở Cây Quéo, Bình Thạnh. Tôi vội tìm đến nơi ngay chiều hôm đó. Tôi gõ cửa mà trong lòng hồi hộp vô cùng. Một lúc sau, có tiếng lách cách tra vào ổ khóa. Em Đ.. ra mở cửa sắt. Em ngước nhìn lên, ngạc nhiên vì không ngờ tôi xuất hiện bất ngờ nơi đây. Cả hai ôm chầm lấy nhau vì quá mừng rỡ. Tôi đã gặp lại em Đ.. bằng xương bằng thịt, nét duyên dáng vẫn như thuở nào, dù hương thời gian đã làm em thay đổi rất nhiều. Bao nhiêu năm rồi, chứ đâu phải mới ngày hôm qua? Sau đó em mời tôi đi lên lầu, nơi đây đặt bàn thờ bà để tôi được đốt một nén nhang cho thoả lòng mong ước từ lâu.

Cầm nén nhang trên tay. Tôi chúc Bà được an nghỉ nơi cõi bình yên và khấn nguyện “Xin bà có linh thiêng hãy phù hộ cho các bạn tôi và tôi, những người đã từng thưởng thức món bún bò độc đáo do bà nấu luôn luôn an bình trong cuộc sống khó khăn hàng ngày, biết thương yêu và giúp đỡ nhau khi cần thiết.”

Tôi kể cho em Đ.. nghe, trước khi về thăm Sài Gòn, tôi có viết một bài về "Bún Bò Bà Đào” để tặng các bạn tôi, những người trai trẻ trưởng thành trong chiến tranh, từng phục vụ ở vùng địa đầu giới tuyến, với những lần vào sanh ra tử, và đã từng biết hương vị Bún Bò Bà Đào. Ngoài ra, bà Đào còn có những cô con gái thanh tú, đoan trang, trong số đó có em Đ.. đang ngồi nói chuyện trước mặt tôi. Em đã làm biết bao đấng anh hùng, hào kiệt khắp nơi một thời ngắm nghía, trong số đó dĩ nhiên là có tôi! Mỗi lần anh chàng nào đến quán, ít ai ăn một tô, thường thường là kêu hai tô. Riêng tôi, ngoài hai tô như thường lệ, tôi còn gọi thêm một tô đặc biệt mang về Sơn Trà để dành cho sáng mai điểm tâm.

Em hỏi vì sao tôi biết Mạ mất. Tôi trả lời là do các bà con Quảng Nam - Đà Nẵng nói lại, khi tôi đến tham dự họp mặt đồng hương được tổ chức ở San José. Tôi vẫn mong ước được đốt một nén nhang trước bàn thờ bà để tưởng nhớ đến bà, vì tôi xem bà như bà Mẹ thứ hai trong đời. Em nghe tôi nói, mà hai hàng nước mắt rưng rưng. Tôi vội đưa khăn tay cho em lau. Em nói trong thổn thức. "Bây chừ, ước chi Mạ em còn sống để nhìn thấy anh và được nghe những lời anh nói, thì hạnh phúc biết chừng nào!"

Sau đó em đã kể cho tôi nghe về những khó khăn, gian truân mà gia đình em đã gặp sau cơn đại hồng thủy. Em nói, thỉnh thoảng bà vẫn nhắc đến tên tôi, không biết bây giờ tôi trôi giạt nơi mô? đã có vợ con gì chưa? hay là chọn kiếp không nhà, mùa đông thiếu chăn êm? Tôi rất mừng, khi được em cho biết bây giờ cả gia đình đều có cuộc sống tương đối ổn định. Tất cả anh chị em đều có công ăn việc làm tốt đẹp, cơ ngơi đàng hoàng. Riêng, người con gái út tên H… đang nối nghiệp bún bò của bà. Quán vẫn được bà con thương tình đến ủng hộ như ngày xưa.

Chia tay em về. Trong lòng tôi cảm thấy lâng lâng, thoáng một nỗi buồn man mác. Tôi vừa đi, vừa khẽ hát nho nhỏ trong cơn mưa lất phất của buổi chiều Sàigòn.

Thuở ấy có em anh yêu cuộc đời,
Yêu đôi môi hồng điểm nét son tươi.
Yêu đôi tay ngà làn má thắm, tóc xanh buông lả lơi,
Nhớ em nhớ bao thuở ấy.
Thuở ấy có em anh chưa từng sầu,
Chưa đi âm thầm ngoài phố đêm thâu.
Chưa mang hoang lạnh ngoài bến vắng,
Hỡi em em về đâu, cho đời mình luôn nhớ nhau.

(Thuở Ấy Có Em - Nhạc Sĩ Huỳnh Anh)

Tôi nguyện trong lòng. Lần tới về Sàigòn, dù bận rộn đến đâu tôi cũng phải đi ra Đà Nẵng. Tìm đến quán bún bò của con gái bà, để trở về với kỷ niệm ngày nào. Kỷ niệm của một thời hồn nhiên và tuyệt vời nhất, mà bây giờ chỉ còn đọng lại trong tiềm thức.

Trần Đình Phước

(San José, California - Edited in 01/2017)



Những Phi Vụ Chết Người

Thành Giang

Cánh cửa phòng ngủ của phi đoàn Phượng Long 431st mở rộng. Ánh đèn được bật sáng. Lê Văn Đệ vừa thiêm thiếp ngủ, đã phải thức giấc vì tiếng động, vài nhân viên phi hành vẫn còn ngáy khò khò giữa đêm khuya tĩnh mịch.

Thiếu úy Lê Nghi, viên sĩ quan trực phi đoàn cất giọng ồn ào đánh thức:

– Phi vụ khẩn cấp! Lệnh của Đại tá Minh Không đoàn trưởng, chỉ thị tập họp nhân viên phi hành ứng chiến đêm nay, tại phòng họp phi đoàn. Tất cả hãy thức dậy, đến phòng họp gấp!

Đêm nay, sĩ quan trực phi đoàn khá bận rộn với những phi vụ bất thường, ông ta phải điều động nhân viên, liên lạc Thiếu tá Huỳnh Ngọc Nghĩa, phi đoàn phó phi đoàn Phượng Long, 431st, viên sĩ quan ứng chiến có cấp bậc cao nhất, ông hiện đang nghỉ ngơi tại cư xá sĩ quan trong phi trường Tân Sơn Nhất.

Một phần ba quân số phi đoàn đang ứng chiến, trên dưới độ 30 nhân viên phi hành gồm đủ các ngành nghề: trưởng phi cơ, phi công phụ, cơ khí phi hành và áp tải phi hành. Họ đã tề tựu đông đủ tại phòng hành quân vào giữa khuya, chỉ còn vài phút giây ngắn ngủi nữa, kim đồng hồ sẽ chỉ đúng 12 giờ, bước sang một ngày mới.

Lê Văn Đệ cúi người xuống cột dây giày, miên man suy tư về phi vụ khẩn cấp, bất thường giữa đêm khuya. Không biết tầm quan trọng của phi vụ như thế nào, đã khiến cho viên đại tá Không đoàn trưởng Không đoàn 33 Chiến thuật đã vất vả, phải đích thân điều động trong đêm khuya. Chắc chắn, đây phải là một phi vụ hóc búa, được thực hiện giữa đêm tối. Tại sao họ không thể chờ đến sáng để thực hiện phi vụ? Tại sao họ không sử dụng trực thăng vận tải Chinook, CH-47 đáp không cần phi đạo? Phải dễ dàng và an toàn hơn không! Có lẽ vì muốn bảo mật trong tình hình chiến sự đang căng thẳng và nguy ngập của Miền nam Việt Nam chăng? Phi cơ trực thăng vận tải Chinook có thể đã bay thấp, tạo những âm thanh ồn ào, khó giữ được những sự bí mật, địch quân dễ dàng phát hiện và tấn công. Họ phải nhờ đến vận tải cơ C-7A Caribou trợ lực, thi hành phi vụ.

Trong khi chờ đợi Thiếu tá Nghĩa đến. Sĩ quan trực trình bày sơ lược các chi tiết về cuộc họp khẩn do đại tá Minh vừa điện xuống. Đại tá đã chỉ thị công tác lập cầu không vận tiếp tế nhiên liệu JP-4 cho trực thăng tại chiến trường nóng bỏng Phan Thiết. Cần gấp hai phi vụ C-7A Caribou, thực hiện ngay đêm nay. Vận chuyển 8,000 pounds xăng JP-4 cho trực thăng đang tham chiến, giết giặc và ngăn chận cộng quân tại phòng tuyến mới thành lập, Phan Thiết. Sau khi căn cứ Không quân Phan Rang đã thất thủ ngày hôm trước.

Hôm nay, ngày 16-4-1975. Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa đang lo lắng cho tình hình chiến sự Miền nam đang nguy ngập, sụp đổ lần lần. Khi cộng sản Bắc Việt đã ồ ạt tấn chiếm các phần đất của Chính phủ Miền nam, từ trung phần chạy dài đến tỉnh Bình Thuận. Chúng đã không gặp một sự kháng cự nào đáng kể. Giờ đây, Việt cộng cố tranh thủ, tiến chiếm mục tiêu cuối cùng là Thủ đô Sài Gòn, sau nhiều năm chúng kiên trì, mưu chước, lọc lừa, chờ đợi thời cơ, cái thiện chí “chống cộng” của nhân dân Mỹ đang bị “mục rữa”. Chính quyền Hoa kỳ sẵn sàng ngoảnh mặt, phản bội, bỏ rơi đồng minh VNCH mà họ đã khuyến dụ mở một cuộc chiến tranh chống cộng tại tiền đồn tự do Miền nam VN.

Cộng sản Bắc Việt đã nắm phần chắc giấc mộng điên rồ, không tưởng “thế giới cộng sản đại đồng” với thâm ý trong thủ đoạn tạo chiến tranh để cướp chính quyền Miền nam Việt nam của họ Hồ, chúng sắp sửa được thành tựu.

Đồng thuận với các cuộc tiến quân vũ bão của cộng sản Việt Nam chính phủ Hoa kỳ nhẫn tâm cắt đứt mọi viện trợ quân sự, mạch máu chính cho chiến trường của Quân đội Miền nam, để cuộc sụp đổ của Quân đội VNCH càng nhanh càng có lợi cho sự tháo chạy của Quân đội Hoa kỳ đã bị “mắc lầy” tại Việt nam, họ cố thoát ra khỏi cuộc chiến tranh dai dẳng, do chính Hoa kỳ và cộng sản Bắc Việt đã chủ xướng và kình chống nhau, cả hai đã tạo ra cuộc chiến tranh Việt Nam, trên phần đất của miền Nam Việt Nam. Ông Hồ yêu chuộng chiến tranh, lão đã ma giáo không muốn để cho chiến tranh đó xảy ra ở miền Bắc của lão?

Chính phủ Hoa kỳ đã hô hào, khích lệ chống cộng sản và ngăn chận Đế quốc Xã hội Chủ nghĩa, cứu nguy thế giới và nước Mỹ, mà Miền nam Việt nam là một tiền đồn Tự do, nạn nhân của hai thế lực cộng sản và tư bản. Giờ đây, 58,000 quân nhân Hoa kỳ đã tử vong tại Việt nam, đã không còn mang một ý nghĩa tốt đẹp, họ đã có thiện chí hy sinh và nằm xuống để bảo vệ tự do “riêng” của nước Việt nam Cộng Hòa.

Thiếu tá Nghĩa xuất hiện ở phòng hành quân phi đoàn, cặp mắt còn đỏ hoe, chứng tỏ ông vừa trải qua một giấc ngủ không trọn vẹn, thì được lệnh họp khẩn cấp. Sĩ quan trực báo cáo ngay với Thiếu tá Nghĩa. Tuyển chọn và thành lập ngay một phi hành đoàn bất thường, có đầy đủ khả năng bay đêm. Mặc dù, phi vụ lệnh cho ngày mai đã được Thiếu tá Nguyễn Đình Thảo, Sĩ quan Hành quân phi đoàn sắp xếp xong và đã phân phát ra hồi chiều. Nhưng đa số nhân viên phi hành có tên trên phi vụ lệnh đã được phép về nhà nghỉ ngơi. Vả lại, số phi công trưởng phi cơ có khả năng bay đêm của phi đoàn chỉ đếm được, không quá trên đầu hai bàn tay.

Thiếu tá Nghĩa thay thế Thiếu tá Nguyễn Đình Thảo, làm công việc của viên sĩ quan hành quân phi đoàn, đang vắng mặt. Ông bắt tay vào việc, đảo mắt một vòng nhìn mặt từng nhân viên phi hành hiện diện trong phòng họp, rồi ông lên tiếng:

– Trung úy Hùng bay với tôi đêm nay.

Lê Văn Đệ quan sát ánh mắt Thiếu tá Nghĩa đã mấy lần đảo qua mặt anh, là biết ngay ông sẽ chọn Đệ là một cơ phi có nhiều kinh nghiệm hơn các cơ phi đang ứng chiến đêm nay. Rất tiếc, Thượng sĩ Lê Như Nhã, trưởng ngành Cơ phi, thâm niên, nhiều kinh nghiệm hơn, đã vắng mặt. Sau khi đã cắt bay xong, ông rời phi đoàn, đã trở về nhà. Thiếu tá Nghĩa chỉ vào hai nhân viên:

– Trung sĩ I Đệ và Hạ sĩ I Hi. Bốn người chúng ta sẽ thi hành phi vụ Cầu Không Vận đêm nay!

Sĩ quan trực ghi vội phi hành đoàn vừa thành lập vào sổ hành quân. Thiếu tá Nghĩa nhìn viên sĩ quan trực, bảo:

– Thiếu úy, gọi điện thoại hỏi phi đoàn Sơn Long 429th, xem ai sẽ bay với chúng ta đêm hôm nay. Thiếu úy!

Sĩ quan trực đã chuẩn bị chu đáo, đáp ngay:

– Trung tá Cung Thăng An, phi đoàn trưởng 429th. Thưa Thiếu tá.

Ông Nghĩa gật đầu tỏ vẻ an tâm.

– Tốt quá rồi! Trung tá An sẽ “lead” chúng ta.

Thiếu tá Nghĩa tiếp:

– Thiếu úy đã gọi và báo với phòng kỹ thuật 431th để họ chuẩn bị phi cơ chưa?

– Máy bay đã chuẩn bị xong rồi, Thiếu tá! Papa Tango 725

Sĩ quan trực gác điện thoại, tiếp lời:

– Đại tá Minh, Không đoàn trưởng mới thông báo. Ông ta đã vừa thuyết trình xong công tác bên phi đoàn Sơn Long 429th. Giây lát nữa đây, đại tá sẽ sang thuyết trình với phi đoàn Phượng Long 431st của chúng ta.

Các phi vụ thường nhật, bay ban ngày, phi hành đoàn thường chỉ dùng một phi công trưởng phi cơ và một hoa tiêu phụ. Nhưng phi vụ đêm nay tương đối nguy hiểm hơn, phi đạo nhỏ không đèn, đang trong tình trạng sôi sục của chiến tranh. Các phi hành đoàn đều phải chọn lựa và tận dụng những nhân viên phi hành có nhiều kinh nghiệm nhất trong số những quân nhân đang ứng chiến. Thiếu tá Nghĩa đã phải dùng hai trưởng phi cơ nhiều kinh nghiệm bay chung một phi vụ cho đêm hôm nay.

Chuyến bay đêm đặc biệt này, Thiếu tá Nghĩa đã chọn và đặt trung úy Võ Văn Hùng là một trưởng phi cơ Caribou thuộc lớp trẻ, nhưng trưởng phi cơ Võ Hùng đã có rất nhiều năm kinh nghiệm bay bổng phi cơ C-7A Caribou trên những tiền đồn nguy khốn của Bốn Vùng Chiến Thuật, ông ngồi vào ghế phi công phụ, giúp đỡ Thiếu tá Nghĩa thực hiện an toàn phi vụ đặc biệt, bất thường và hóc búa đêm nay. Các phi công của hai phi vụ đều đã biết trước tình trạng nguy hiểm của phi trường Phan Thiết là một phi trường nhỏ, không đầy đủ phương tiện đèn đuốc an toàn, thiếu các đèn xác định vị trí trên phi đạo, để đáp ban đêm, trong bối cảnh của chiến trường tàn khốc. Thiếu tá Nghĩa đã lo xa, dù chức vụ, cấp bậc và thâm niên của ông cao hơn Trung úy Hùng, nhưng càng lớn tuổi mắt càng kém, chậm chạm, vả lại, ở chức vụ tham mưu phi đoàn, ngồi chơi xơi nước, ông đã ít có dịp bay nhiều trên các phi trường tiền đồn, thiếu “văn ôn võ luyện” như các trưởng phi cơ trẻ tuổi C-7A, đã bay và đáp nhuyễn nhừ ở những phi đạo nhỏ hẹp, không tiện nghi, thiếu an ninh. Ông cần một phi công giỏi hầu tiếp sức khi cần thiết trong tình huống bay đêm đầy nguy hiểm, khó lường trước.

Lệnh là lệnh, họ phải cố gắng thi hành bằng mọi khả năng, vì đất nước đang ở trong tình trạng nguy ngập. Cộng sản Việt nam đã tiến gần đến Thủ đô Sài Gòn. Dường như mỗi quân nhân đều ưu tư, lo lắng và tự phải có một trách nhiệm với một tinh thần phục vụ đất nước và hy sinh. Họ cùng nhau yểm trợ, xây đắp những phòng tuyến ngăn chận làn sóng tiến quân của kẻ thù thâm độc phương Bắc với những thiện chí cao nhất, kể cả sự hy sinh tính mạng để cứu nước, trong đó, có sự bình an của thân nhân họ.

Đại tá Minh xuất hiện ở cửa phi đoàn. Ông bước vội vào phòng họp, thản nhiên vẫy tay mời mọi người ngồi.

Đây là một công tác đặc biệt, bất thường có tính cách khẩn trương và bí mật. Đích thân đại tá Không đoàn trưởng Không đoàn 33 Chiến thuật đảm trách việc điều động, kiêm nhiệm luôn thuyết trình viên về công tác và an ninh của các phi vụ.

Tương tự những tin tức an ninh đại tá Minh đã thuyết trình tại phi đoàn Sơn Long 429th, Caribou. Ông lập lại tình hình chiến sự xung quanh phi trường Phan Thiết với những lời nhắn nhủ:

– Như các anh đã biết phi trường Hàm Tân là một phi trường tiền đồn nhỏ, thiếu thốn tiện nghi, không có đèn xác định vị trí phi đạo và đặt trong tình trạng chiến tranh. Tuy nhiên, khi phi cơ các anh đáp, anh em quân nhân dưới đất sẽ bắn hỏa châu để soi sáng phi đạo cho các anh đáp.

Vừa nghe qua, hai ông phi công nhìn nhau rởn tóc gáy. Bốn nhân viên phi hành ruột gan lộn ngược khi họ liên tưởng đến “trò chơi sáng chế” nguy hiểm của giới hữu trách Quân Đoàn II trước đó, đã sáng tạo những “sáng kiến chết người”, và giờ đây những “phi vụ cạm bẫy” đó nó đang tái diễn với phi hành đoàn của Thiếu tá Nghĩa. Mấy tháng trước đây, năm 1974, một phi hành đoàn Sơn Long 429th đã lâm nạn thê thảm ở sân bay tiền đồn Nhơn Cơ, Ban Mê Thuột. Họ đã đáp đêm với đèn phi đạo bằng những đèn pha xe jeep, đã giết chết 4 nhân viên phi hành và 25 Biệt kích quân thiện chiến của Sư đoàn 23 Bộ Binh.

Phi hành đoàn hơi nôn nao nhưng họ cố làm ra vẻ bình tĩnh. Đàng nào họ cũng phải cố gắng, không có một lý do gì để từ chối trong giây phút cứu nguy đất nước đang nguy khốn này. Khi các trực thăng bạn đang khẩn cấp cần sự tiếp tế nhiên liệu, mạch máu chính trên chiến trường xao động ở Bình Tuy. Họ đang ráo riết chiến đấu, hy sinh, dựng các phòng tuyến ngăn chặn giặc thù nham hiểm Bắc Việt.

Thiếu tá Nghĩa cất giọng hỏi:

– Còn tình hình chiến sự quanh vùng như thế nào? Thưa đại tá!

– Cám ơn Thiếu tá, ông đã nhắc nhở tôi điều này.

Ngưng giây lát, ông nói tiếp:

– Rất nhiều trận đánh lẻ tẻ đang diễn ra xung quanh Phan Thiết. Khi đã đến nơi, các anh nên nhớ, không nên giảm cao độ và đáp ở phía tây của phi trường, rất có thể sẽ bị địch quân bắn đấy! Phải đáp từ bờ biển đáp vào, tức đáp từ phía đông phi trường. Nhớ rõ điều này.

Đại tá Không đoàn trưởng Không đoàn 33 Chiến thuật cố gắng nhanh chóng kết thúc cuộc thuyết trình an phi và tình hình chiến sự tại Hàm Tân trong 20 phút ngắn ngủi. Để phi hành đoàn sớm lên đường, thực hiện các phi vụ.

Ông kết thúc buổi họp bằng một lời khích lệ cao đẹp:

– Các anh em cố gắng hoàn tất phi vụ tốt đẹp. Đêm nay, Câu lạc bộ Mây Bốn Phương sẽ mở cửa suốt đêm. Đích thân tôi sẽ chờ đợi các anh trở về và chúng ta sẽ dùng buổi ăn sáng tại Câu lạc bộ.

Thiếu tá Nghĩa muốn xác định lại phi hành đoàn Sơn Long 429th, gồm có những ai sẽ thi hành công tác, ông hỏi:

– Thưa đại tá! Ai sẽ bay phi vụ của bên phi đoàn 429th đêm hôm nay?

– Trung tá phi đoàn trưởng Cung Thăng An sẽ bay đêm nay và ông ta sẽ “lead” các anh. Các anh còn thắc mắc điều gì nữa không?

Lê Văn Đệ nghĩ thầm, với một ý định sẽ phát biểu một câu nói để đời, tuy hài hước nhưng đầy ý nghĩa: “Thưa đại tá! Chúng tôi sẽ cố gắng vượt bực, chúng tôi nhất định phải hoàn tất phi vụ của đại tá đã giao phó một cách an toàn và tốt đẹp. Chúng tôi khẳng định phải trở về đây để dùng buổi ăn sáng đặc biệt, đầy ưu ái của đại tá, có lẽ chúng tôi rất hân hoan được sự ưu đãi của đại tá như vậy! Chúng tôi nhứt định phải trở về”. Văn Đệ kịp thời nhận định tình hình đang căng thẳng, không thuận tiện cho việc “tếu” trong giây phút nguy kịch này, chàng tự mỉm cười trong im lặng.

Thiếu tá Nghĩa lắc đầu ra hiệu không còn thắc mắc. Để sớm chấm dứt buổi họp. Đại tá Minh cất tiếng:

– Cám ơn các anh. Bây giờ, các anh có thể bắt đầu đi thi hành phi vụ, chúc các anh gặp nhiều may mắn.

Trời Sài Gòn vào khuya, bóng đêm bao phủ. Hai chiếc vận tải cơ Caribou C-7A nổ máy đều đặn, di chuyển và tiến vào phi đạo, họ xin chỉ thị cất cánh với đài kiểm soát Không lưu Sài Gòn. Hai cánh chim sắt ầm vang, lần lượt vỗ cánh bay đi trong giấc điệp an lành của người dân thủ đô Sài Gòn.

Thiếu tá Nghĩa đậu phi cơ trên phi đạo, chờ Trung tá An cất cánh bay đi trước trong giây lát. Đến lượt cánh chim thép Papa Tango 725 của Thiếu tá Nghĩa nhổ chân rời mặt phi đạo, nhẹ nhàng lướt trên không trung. Đối với các phi công, cất cánh trên phi đạo Tân Sơn Nhất rộng rãi, đủ chiều dài với hai cột đèn xác định rõ rệt mặt phi đạo rộng thênh thang, cất cánh dễ dàng hơn “ăn cơm bữa”.

Thiếu tá Nghĩa điều chỉnh phòng hờ đồng hồ hướng bay, ông chỉ việc nhắm và bay theo cây đèn đỏ xoay tròn trên đỉnh đuôi phi cơ của trung tá An, bay theo cho nó tiện.

Chẳng mấy chốc, thành phố Sài Gòn rực rỡ ánh đèn, bỏ lại đàng sau lưng. Hai chiếc phi cơ âm thầm, lầm lũi trong bóng tối âm u, tiếp tục lấy cao độ bay lên không, trong màn đêm xám xịt, thẳng ra hướng đông-đông bắc của Sài Gòn.

Về đêm, càng lên cao không khí càng trở lạnh. Chiếc áo dạ phi hành không đủ ấm. Lê Văn Đệ co ro tựa vào thành ghế, nỗi nhớ vợ con miên man, không biết giờ này Kim Lan và hai con của chàng đã yên giấc điệp hay chưa? Có thể nàng còn đang thao thức, bận rộn chăm sóc cho thằng con thứ hai mới vừa sinh được 35 ngày, trong hoàn cảnh khắc nghiệt của đất nước, nỗi bi thương, sắp sửa sụp đổ tan tành. Bằng cầu nguyện cho họ có được những giấc điệp êm đềm giữa lòng đô thị bình an.

Có bao giờ những người nhân viên phi hành dám kể lại những giây phút gian nguy của họ trên không trung đầy lửa đạn. Kim Lan nào biết chồng nàng đã trải qua hàng chục phi vụ kinh hoàng, xuýt mất mạng, đã bao lần chàng may mắn vượt thoát khỏi thần chết, để còn tồn tại. Giờ đây, chàng sắp sửa đi vào vùng trời tăm tối, đầy ám ảnh, nhiều dun rủi và gian nguy trong cuộc chiến tuyệt vọng của Miền nam.

Đối diện hàng ghế trống trải bên trái, Hạ sĩ I Dương Phong Hi vô tư, tựa lưng vào thành ghế lim dim đi vào giấc điệp. Văn Đệ đứng lên tiến lại gần kiểm soát lại khối hàng hóa, gồm 8 phi xăng phản lực JP4 sẽ dùng cho phi cơ trực thăng vũ trang chiến đấu UH-1. Khối hàng hóa “xăng nhạy bén” nguy hiểm đã làm cho chàng không ít suy tư và lo lắng. Đưa tay, chàng kéo mạnh những sợi dây buộc khối hàng. Nó đã được áp tải phi hành cẩn thận, khóa chặt xuống sàn phi cơ.

Trở lại ghế ngồi, Đệ suy tư về lời thuyết trình tình hình bất ổn của phi trường Hàm Tân, Phan Thiết còn âm vang trong tâm tư, khiến cho Văn Đệ đâm lo lắng, nhưng không thể từ chối trách nhiệm, một khi đã được cấp trên chọn lựa và chỉ định. Trách nhiệm của một quân nhân, đành phải liều mạng thi hành, dù biết rằng đây có thể là một phi vụ cực kỳ nguy hiểm, có thể sẽ xảy ra những điều bất trắc, bỏ mạng, trong tích tắc với những sơ hở nhỏ của phi công và cũng có thể đây là phi vụ cuối cùng cho cuộc đời của chính họ.

Nỗi lo lắng của Đệ dâng cao, cứ phải nghĩ đến khối hàng hóa nhiên liệu, cực kỳ nguy hiểm hiện diện giữa thân tàu. Nếu chẳng may phi cơ lâm nạn và làm crash, có thể 4,000 pound xăng phản lực cực nhạy này, cộng thêm số lượng xăng trong bình của phi cơ, đủ để thiêu xác bốn nhân viên phi hành trên phi cơ thành tro bụi, không có một bàn tay cứu hỏa nào có thể dập tắt, cứu chữa được sinh mạng của họ.

Văn Đệ rùng mình, hồi tưởng lại phi hành đoàn của cố Thiếu tá Hoàng Trọng, trong đó bạn đồng môn của anh, Thượng sĩ Nguyễn Minh Bạch đã tử nạn, phi hành đoàn bốn người và 25 Biệt kích quân thiện chiến của Sư đoàn 23 Bộ binh đã chết thê thảm tại phi trường tiền đồn Nhơn Cơ, khi cộng sản Việt nam tiến quân và đánh thử lửa tại Ban Mê Thuột mấy tháng trước.

Phi vụ đêm hôm đó, cũng tương tự như phi vụ Văn Đệ hiện đang thi hành. Phi vụ cầu không vận khẩn cấp đúng vào giờ khuya, phi đạo nhỏ và ngắn, không đèn đuốc xác định vị trí đường bay. Giới hữu trách Quân đoàn II biết rằng các phi vụ này rất nguy hiểm. Họ đã sáng chế ra những phương cách đáp đêm thiếu an phi và ngoài khả năng của phi công. Lần trước, họ đã dùng hai chiếc xe jeep đặt ở hai đầu phi đạo, bật đèn pha làm dấu hiệu đường bay cho các phi cơ đáp đêm rất tai hại và nguy hiểm. Hai lý do thiếu an toàn: vì bốn ngọn đèn của hai chiếc xe không đủ xác định chiều dài của đường phi đạo mà mỗi bên đường bay phải cần đến ít nhất 10 ngọn đèn cho mỗi cột của hai phía đường bay, vả lại, đèn xe chiếu ngược vào mặt phi công sẽ bị chóa mắt, nhìn không thấy rõ mặt phi đạo, rất tai hại, làm chết người, và các phi vụ khác bị đình động, cầu không vận cũng phải bị hủy bỏ ngay đêm hôm đó.

Một sáng kiến ngớ ngẩn, cực kỳ nguy hiểm, hại người. Đại úy Trọng đã cố gắng đáp phi cơ và không ước lượng được cao độ giữa phi cơ và mặt đất. Chiếc máy bay của ông đã xuống thấp sớm hơn dự liệu đáp trên mặt phi đạo, va chạm và cày nát 50 thước trên đỉnh đồi thông, cách đầu phi đạo vài chục thước. Kết quả phi cơ lâm nạn với tất cả 29 mạng người trên máy bay đều thiệt mạng.

Ngày thăm xác phi hành đoàn của Đại úy Trọng tại Tử Sĩ Đường ở Tân Sơn Nhất, thật thê thảm và khủng khiếp quá chừng. Văn Đệ đau lòng chứng kiến thân xác vỡ nát của Nguyễn Bạch, chàng không khỏi sợ hãi lẫn thương tâm, hàm răng dưới và cánh tay phải đã văng đi mất, trông khủng khiếp vô cùng.

Phi vụ của Văn Đệ đêm nay tương tự như phi vụ của Nguyễn Bạch mấy tháng trước. Lần này, các ông lại sáng chế bắn hỏa châu soi sáng mặt phi đạo, không biết nó có an toàn và khá hơn lần trước hay không? Không chừng còn tệ hại hơn nữa. Đệ lo lắng khi nhìn 4,000 pound xăng phản lực, có lẽ nó sẽ thiêu rụi thân xác phi hành đoàn không còn một mảnh xương thịt như phi hành đoàn của Nguyễn Bạch.

Giọng trung tá An phát ra từ máy liên thoại trên chiếc phi cơ “lead” Gold Alpha, GA 750 của phi hành đoàn Sơn Long 429th, cắt đứt luồng tư tưởng yếm thế hèn nhát của Lê Văn Đệ. Ông ta thông báo với Thiếu tá Nghĩa, hiện thời phi cơ của ông đang giảm cao độ bay xuống, đề chuẩn bị đáp ở Hàm tân.

Thiếu tá Nghĩa cũng bắt đầu cho phi cơ giảm dần cao độ. Từ trên không, Văn Đệ nhìn xuống mặt đất bao trùm bóng đêm xám xịt. Xa xa phía tây bắc phi trường Phan Thiết, một vài bãi chiến trường đang giao tranh ác liệt, phi hành đoàn đã nhận diện được các cuộc giao chiến dưới mặt đất, những đường đạn lửa đỏ rực liên tục đan vào nhau như màn lưới đỏ, những ánh chớp vàng hoe, lóe sáng trong màn đêm, dường như nó là: lựu đạn, mìn, đại bác hay bom máy bay nổ không chừng! Nhìn cảnh tượng hãi hùng của chiến tranh, chắc chắn nơi đó đang máu chảy thịt rơi mà đôi bên đã sẵn sàng sát phạt lẫn nhau, hầu tranh giành từng tấc đất cho phần thắng lợi cuối cùng, để làm phần thưởng cao quý cho các nhà lãnh đạo cộng sản Việt nam lỗi lạc an lòng, ngủ ngon, nơi an toàn tại Hà nội.

Thiếu tá Nghĩa nghiêng phi cơ bay về bên phải tránh xa vùng giao tranh bên trái, những bãi chiến trường khốc liệt dưới mặt đất. Không khéo Việt cộng bắn phòng không lên, bỏ mạng! Ông ta đem phi cơ ra đến bờ biển Phan Thiết, bay mấy vòng chờ đợi Trung tá An đáp xuống trước.

Trung tá An lớn tuổi nhất trong hai phi hành đoàn, nhưng ông ta còn “gân lắm” mắt vẫn còn tốt trong đêm tối, ông đã sử dụng kinh nghiệm gần 20 năm bay bổng, với mấy chục ngàn giờ bay, để đáp phi vụ ngoạn mục, đầy nguy kịch này. Không biết nhân viên hỏa châu dưới đất đã bắn trái sáng như thế nào, sau 20 phút Trung tá An mới đáp an toàn xuống phi trường Hàm Tân.

Phi cơ của Trung tá An đang đậu dưới bến đậu của phi trường Hàm Tân, ông gọi lên không trung, thông báo với Thiếu tá Nghĩa, đến lượt Papa Tango 725 hạ cánh.

Từ bờ biển, nhắm hướng phi trường Hàm Tân, Thiếu tá Nghĩa hạ mũi phi cơ bay xuống, ông ra lệnh cho phi hành đoàn làm thủ tục đáp. Thiếu tá Nghĩa liên lạc với người lính bắn hỏa châu ở dưới đất, dặn dò:

– Phi cơ của chúng tôi hiện đang giảm cao độ bay xuống. Bạn chờ khi nào chúng tôi đến sát phi đạo và ra hiệu, bạn mới bắn trái sáng. Bạn nghe tôi thế nào?

– Tôi nghe bạn rõ 5 trên 5 đó, Papa Tango 725!

Thiếu tá Nghĩa cho phi cơ hạ thấp theo vệt sáng của mặt phi đạo lờ mờ dưới mặt đất, ông cho bánh đáp duỗi ra, phi hành đoàn hoàn tất thủ tục hạ cánh. Rồi ông ra hiệu cho nhân viên bắn trái sáng:

– Papa Tango gọi! Anh chuẩn bị trái sáng. Chúng tôi đã xuống gần đường bay rồi. Anh hãy bắn trái sáng giùm!

Hỏa châu bật sáng trên bầu trời, mặt phi đạo lung linh, lúc ẩn lúc hiện theo các vệt ánh sáng chói chang của hỏa châu đang bay nhấp nhô trong không gian. Thiếu tá Nghĩa cố gắng cắm mũi phi cơ lao xuống nhanh hơn để đáp. Hơn một phút trôi qua. Quả hỏa châu đột ngột tắt ngúm, khi phi cơ của Thiếu tá Nghĩa vẫn còn đang lơ lửng trên không gian, cả chục bộ Anh từ mặt đất.

Từ bên trong lẫn bên ngoài phi cơ tối om như mực. Thiếu tá Nghĩa hốt hoảng quát tháo, đồng lúc bàn tay phải sờ soạng trong bóng tối, tìm kiếm cần ga của hai động cơ, giọng Thiếu tá Nghĩa khẩn trương, thông báo phi hành đoàn làm thủ tục bay lên:

– Go around, go around!

Nhanh như chớp, Trung úy Hùng ngồi ở ghế phải của phi công phụ vội vàng đẩy hai cần chong chóng và hỗn hợp khí về trước, đồng lúc Thiếu tá Nghĩa đẩy hai cần ga lên vận tốc tối đa, cho phi cơ cất cánh bay lên, ông cho bánh đáp phi cơ co vào làm giảm bớt sức cản của gió. Văn Đệ hồi hộp trong bóng tối của chiếc phòng lái, chỉ còn nhờ hai cái tai nghe vang vọng những tiếng hụ của hai cái động cơ. Chàng lâm râm, cầu nguyện cho hai cái máy đều hoạt động tốt.

Vài giây trôi qua. Bây giờ mắt của các hoa tiêu mới quen với bóng tối. Thiếu tá Nghĩa nghiêng phi cơ bay vòng ra bờ biển trở lại.

Phi hành đoàn toát mồ hôi lạnh khi sự kiện đáp vừa rồi quá nguy hiểm. Thiếu tá Nghĩa bực dọc, quát tháo khiển trách chuyên viên bắn hỏa châu dưới đất:

– Chúng tôi nghĩ anh bắn hai ba quả liên tục, chúng tôi mới có đủ thì giờ đáp được. Anh bắn có một trái, phi cơ chưa kịp đáp, chưa chạm mặt phi đạo, trái sáng tắt tối thui làm sao chúng tôi có thể đáp được? Anh có biết bắn hỏa châu như vậy chúng tôi không thấy đường đáp, rất nguy hiểm cho chúng tôi, anh biết không? Chúng tôi muốn anh bắn liên tục hai ba quả cho đến khi chúng tôi đáp được trên phi đạo, rõ không?

– Xin lỗi Papa Tango, Chính phủ VNCH đã bị cúp viện trợ, chúng tôi không có đủ trái sáng để bắn liên tục đâu bạn.

– Như vậy, là anh đã xác nhận không có đủ trái sáng để cho chúng tôi đáp an toàn phải không? Hay anh muốn chúng tôi phải hủy bỏ phi vụ?

Chuyên viên hỏa châu ngẫm nghĩ giây lát, dường như ông ta đang lo sợ trách nhiệm, chiến trường rất nguy ngập, trực thăng đang cần tiếp tế xăng để bay và chiến đấu bảo vệ tỉnh Bình Tuy. Ông ta xuống giọng thuyết phục Thiếu tá Nghĩa:

– Xin Papa Tango hãy xuống gần phi đạo hơn nữa, bạn đáp lại một lần nữa đi bạn!

Thiếu tá Nghĩa bay vòng phi cơ, cố gắng đáp lại lần thứ hai, ông xuống gần phi đạo hơn, trước khi thông báo cho bắn trái sáng. Tay Nghĩa ghìm chặt cần lái, mắt chăm chú nhìn phi đạo lờ mờ dưới đất.

Trước kia, ít ai thấy Thiếu tá Nghĩa đeo kính cận, đột nhiên, đêm nay ông ta đeo kính, làm tăng thêm sự lo ngại cho phi hành đoàn. Khi rời cửa phi đoàn, ông cũng đã cảnh báo trước với Trung úy Võ Hùng, mắt ông kém về đêm, khiến cho Bằng càng lo lắng, bị ám ảnh, cứ lo sợ phi công không nhìn thấy rõ độ cao, dễ nhầm lẫn, ước tính sai cao độ, có thể gây ra những phương hại chết người tương tự như Đại úy Hoàng Trọng đã bị lâm nạn tại Nhơn Cơ.

Thiếu tá Nghĩa nhất đinh phải đáp cho bằng được lần này. Ông cố cho phi cơ xuống thật thấp trước khi ra hiệu bắn hỏa châu.

Chẳng khác lần trước, phi cơ còn trên không, hỏa châu đã vụt tắt. Thiếu tá Nghĩa quát tháo inh ỏi, ông hồi hộp cho phi cơ bay lên.

– Trời ơi! Anh định giết chúng tôi phải không? Chúng tôi thỉnh cầu anh bắn cho hai quả mới đủ thời gian để đáp, chúng tôi chưa đáp được, tắt tối thui làm sao mà đáp?

– Một lần nữa xin lỗi Papa Tango, chúng tôi không có đủ trái sáng, làm sao thỏa mãn, bắn liên tục cho Papa Tango được!

Nghĩa tức giận quát:

– Các anh nói các anh không đủ trái sáng, nhưng các anh đã bắn phí phạm hai quả rồi phải không? Thật vô ích quá! Phải chi các anh bắn liên tục hai quả ngay từ đầu, đủ thời gian cho chúng tôi đáp, đâu phải tốn đến quả thứ ba, các anh lấy ở đâu ra để bắn cho chúng tôi đáp chứ? Bạn có muốn tôi báo cáo việc này lên cấp trên hay không?

Chuyên viên hỏa châu xuống nước nhỏ:

– Lần này, xin bạn hãy cố gắng xuống thấp hơn nữa, rồi mới báo hiệu cho chúng tôi bắn trái sáng, để đáp cho kịp. Xin Papa Tango thông cảm!

– Chúng tôi đã xuống thấp lắm rồi. Trời tối, làm sao chúng tôi xuống thấp hơn được nữa chứ!

Thiếu tá Nghĩa sửa chữa lại thế ngồi cho thoải mái, thở ra những hơi thở bực dọc trong người. Lần này, ông cố gắng xuống thật thấp, mới hy vọng đủ thời gian đáp kịp trước khi hỏa châu vụt tắt.

Văn Đệ cố gắng quan sát kỹ lưỡng các đồng hồ của hai động cơ, tai chăm chú theo dõi mọi động tịnh khác thường của hai cái máy. Cứ mỗi lần đối diện nguy hiểm, khó khăn, tâm trí Đệ cứ cầu an cho hai cái động cơ đều hoạt động tốt, mới hy vọng còn sống sót. Mọi sự hư hỏng động cơ trong những lúc khó khăn này, rất nguy nan, thật khó lòng thoát nạn.

Thiếu tá Nghĩa thở ra một hơi thở dài, lấy lại bình tĩnh, gò phi cơ thật kỹ lưỡng, cho mũi phi cơ lao xuống, nhắm thẳng hàng ngay vệt mờ của phi đạo. Phi cơ mỗi lúc xuống thấp dần. Ông cho bánh đáp phi cơ hạ xuống, chuẩn bị đáp. Papa Tango 725 đang tiến gần đến đầu phi đạo, ông ra hiệu bắn trái sáng.

Hai viên phi công có vẻ nao núng vì họ đoán chắc lần này họ cũng sẽ không thể đáp kịp trước khi hỏa châu tắt, nếu họ ngoan cố, chỉ bắn có một quả. Đúng như dự đoán của hai viên phi công. Hỏa châu đã tắt, trời tốt đen. Phi cơ quá thấp chỉ còn vài chục bộ trên không trung. Thiếu tá Nghĩa không còn chọn lựa bắt buộc phải đáp. Vài giây bóng tối nhanh chóng trôi qua. Hai hoa tiêu cố nhướng mắt nhìn phi đạo bên ngoài. Trung úy Võ Hùng kinh hoàng nhận ra mũi phi cơ không thẳng hàng với đường phi đạo, nó xỉa xéo vào bức tường vôi trắng nằm dọc theo hàng rào đường bay bên tay trái. Hùng gào thét thất thanh:

– Thiếu tá! Over shoot! Coi chừng phi cơ bị “over shoot”, đó Thiếu tá!

Thiếu tá Nghĩa tay ghì chặt cần lái, mất bình tĩnh, cố nhướng mắt nhìn mặt phi đạo bên ngoài, ông cố nghiêng gắt phi cơ về bên phải, tim đập mạnh, mắt chăm chăm, nhanh nhẹn, cố gắng gò phi cơ thẳng hàng với phi đạo, miệng lắp bắp trấn an:

– Đã thấy rồi! Tôi thấy rồi, Cám ơn, trung úy!

Trung úy Võ Hùng rùng mình, hoảng hốt, hồi hộp, tim đập mạnh, phi cơ đã sắp sữa chạm mặt phi đạo, mũi phi cơ vẫn chưa hoàn toàn thẳng hàng với đường bay, phi cơ có thể phóng ra ngoài phi đạo. Cái chết cận kề ngay trước mặt, Trung úy Hùng bất chấp qui luật bay, phi công phụ không bao giờ được phép đụng chạm vào cần lái khi trưởng phi cơ đang điều khiển chiếc máy bay. Đi tù cũng nhận chịu, cái chết trước mắt, phải hành động! Trung úy Hùng tiếp tục đè nặng cần lái về bên phải, nghiêng phi cơ, cố gắng sửa chữa mũi phi cơ cho hoàn toàn thẳng hàng với mặt phi đạo.

Vừa đúng lúc, bánh đáp bên phải cũng chạm xuống mặt đường bay, lót bằng vỉ sắt phát ra những âm thanh rồn rột, bánh trái phi cơ vẫn còn hỏng trên không. Phi hành đoàn có cảm giác phi cơ nghiêng về bên phải, mất 5 giây trôi qua, bánh trái mới chạm mặt phi đạo. Một lối đáp bất thường nguy khốn, trong khi hai viên phi công cố nghiêng phi cơ, sửa chữa cho thẳng hàng với mặt phi đạo và đã chạm một bánh xuống trước, một bánh xuống sau, rồi hai bánh mới chạm đều xuống mặt đường bay. Phi cơ nhồi theo dợn sóng của vỉ sắt, Thiếu tá Nghĩa vừa đạp thắng, đồng thời vô reverse, đổi sải chân cánh quạt thổi gió ngược về phía trước, cản lại trớn của phi cơ, chạy chậm chạp đến cuối đường bay, rồi quẹo vào bến đậu Hàm Tân. Phi hành đoàn thở phào nhẹ nhỏm, mừng thầm, đã may mắn thoát đại nạn.

Trong bốn năm làm việc trên phi cơ Caribou, với hàng trăm lần phi cơ đã đáp, chưa một lần nào Văn Đệ gặp phải một trường hợp phi cơ lại đáp quờ quạng, một bánh chạm trước một bánh chạm sau như thế này, Đệ đã hồi hộp chờ đợi một tai nạn có thể sẽ xảy ra. May thay, họ đã vất vả, kịp thời sửa chữa và đã thoát cơn nguy khốn.

Thiếu tá Nghĩa đã tự biết mình lớn tuổi, mắt kém về đêm, ít kinh nghiệm bay bổng trên các phi trường tiền đồn nhỏ, thiếu tiện nghi, những phi trường nhỏ càng trở nên nguy hiểm hơn về ban đêm, tối tăm, khó xác định vị trí. Đó là lý do chính khiến Thiếu tá Nghĩa phải chọn một trưởng phi cơ nhiều kinh nghiệm và đã đáp nhuyễn ở các phi trường nhỏ, ngồi vào ghế phi công phụ để giúp đỡ ông khi hữu sự. Ông không hề tự ái, khi Trung úy Võ Hùng đã can đảm phá luật lệ bay, phụ đè cần lái về bên phải sửa chữa mũi phi cơ, và Trung úy Hùng đã cứu mạng cho cả phi hành đoàn, tránh khỏi một tai nạn, phi cơ có thể đã tông ra khỏi đường phi đạo, đâm đầu vào những chướng ngại vật, chết cháy trong kho xăng JP-4 trên phi cơ. Trong thâm tâm Thiếu tá Nghĩa đã thầm cám ơn sự can đảm của Trung úy Hùng, đã cứu sinh mạng các đoàn viên, trong đó có trách nhiệm của ông.

Không biết người ta xây bức tường nằm dọc theo phi đạo để làm gì? Quá nguy hiểm. Nếu hai phi công không kịp thời nhìn thấy, sửa chữa và kéo mũi phi cơ lại. Nó đã xỉa ra ngoài phi đạo rồi đâm sầm vào bức tường “ngớ ngẩn” kia, phi hành đoàn đều bỏ mạng, sẽ bị thiêu rụi tệ hại hơn phi hành đoàn của cố Thiếu tá Hoàng Trọng.

Thiếu tá Nghĩa cho chiếc phi cơ Papa Tango 725 của ông đậu song song với chiếc phi cơ Gold Alpha 750 của Trung tá An. Ông tắt hai máy, ngồi thừ người giây lát, im lìm tựa lưng vào thành ghế thở dốc để hoàn hồn. Thở ra những hơi thở âu lo, sợ hãi lẫn giận dữ. Rồi ông chậm rãi rời phòng lái. Phi hành đoàn đang chờ đợi nhân viên hậu trạm dỡ những khối hàng.

Trung tá An đứng dưới đất chờ Thiếu tá Nghĩa khá lâu, trong nỗi lo lắng. Ông nở nụ cười:

– Làm gì lâu quá không đáp được vậy? Thiếu tá!

Từ trên không lạnh lẽo, thế mà mồ hôi của Thiếu tá Nghĩa nhễ nhại. Ông rút chiếc khăn lau những giọt mồ hôi còn đọng trên trán. Không ai biết chân ông còn đang run vì vừa trải qua và thoát khỏi một đại nạn, ông lắc đầu đáp:

– Chúng nó độc ác quá trời! Tiếc làm gì mấy cái trái sáng đó, chúng nó bắn từng trái một, khi phi cơ chưa kịp đáp đã tắt ngúm, tối thui, rất nguy hiểm, phải bay lên mấy lần. Tức mình quá, lần thứ ba quyết định đáp luôn, bị “over shoot”, cũng may, chúng tôi đã kịp thời trông thấy, sửa chữa lại mũi phi cơ, đúng lúc bánh đáp cũng vừa chạm mặt phi đạo. Xuýt nữa là đâm đầu vào bức tường kia, là thiêu rụi cả phi hành đoàn của chúng tôi rồi.

Mất 15 phút, nhân viên hậu trạm phi trường nhanh chóng dỡ các khối hàng khỏi phi cơ, công tác cầu không vận đã hoàn thành. Trung tá An bảo:

– Thôi, chúng ta về thôi. Chúng tôi cất cánh trước nhé!

Hai phi hành đoàn trở lại vị trí làm việc trên phi cơ, quay máy, cất cánh và trở về hậu cứ Tân Sơn Nhất khi bầu trời Sài Gòn còn tối om, gần 5 giờ sáng.

Họ đã đáp an toàn xuống phi trường Tân Sơn Nhất, chấm dứt phi vụ. Đại tá Minh giữ đúng lời hứa, chờ đợi họ tại Câu lạc bộ Mây Bốn Phương và họ đã dùng bữa ăn sáng sớm nhất trong ngày, do ông Đại tá Minh đã khoản đãi những phi hành đoàn ưu tú của ông, đã hoàn tất tốt đẹp hai phi vụ khẩn cấp, hóc búa và nhiều rủi ro, đã được cấp trên giao phó.

Thiếu tá Nghĩa, phi đoàn phó, một phi công cao và gầy của phi đoàn Phượng Long 431, dường như ông không mấy quan tâm gì đến bữa ăn ưu đãi đặc biệt của Đại tá Không đoàn trưởng, sau một phi vụ hiểm nghèo, ngoài khả năng của các phi công. Theo ông những sáng chế nguy kịch này cần phải được chấm dứt, hầu cứu mạng cho rất nhiều phi công. Những nét âu lo còn vương vấn trên gương mặt phong trần của người phi công gầy còm gốc Miền nam.

Phi hành đoàn đã ghi thêm vào sổ giờ bay cá nhân của họ những giờ bay nguy kịch và dài nhất trên không gian, một vùng trời âm u của tháng Tư Đen, nghiệt ngã, năm 1975, đánh dấu những kinh nghiệm xương máu của những người Không quân trên không trung, mà những người bạn của họ đã kém may mắn, nhiều bất hạnh, chẳng may họ đã ra đi và không bao giờ trở lại.

Rất tiếc, bài hồi ký Những Phi Vụ Chết Người này, một câu chuyện thật của chiến trường Tháng Tư Đen nghiệt ngã này đã viết ra quá trễ. Đại tá Minh đã qua đời nhiều năm trước ở California. Ông không có dịp đọc để thưởng thức, tưởng nhớ, hay tìm hiểu sự thật, những chi tiết quý báu của các công tác rất nguy hiểm, để so sánh với những hình ảnh ông đã hình dung ra, của những phi vụ hiểm nghèo, trong những đêm độc hành, ông đã đơn độc ngồi chờ tin tức đoàn chim sắt Caribou của ông, tại văn phòng Không đoàn. Những chuyện gì đã xảy ra ngoài chiến tuyến cho những cánh chim sắt Sơn Long và Phượng Long của ông, mà ông đã gửi họ ra tiền tuyến sôi sục chiến tranh, giữa đêm khuya. Và cũng để thấu hiểu tường tận, chính xác nguyên nhân cái chết đau thương của những cánh chim thép Sơn Long 429, đã hy sinh tại phi trường Nhơn Cơ, trong cùng một cảnh ngộ, đáp ban đêm.

Thiếu tá Nghĩa đã mãn nguyện sau khi xem qua bài hồi ký Những Phi Vụ Chết Người trước khi ông qua đời vì cơn bạo bệnh năm 2009, tại Brass Valley, Bắc Cali. Bài viết này thay cho một lời cám ơn ông, đặc biệt ghi ơn Trung úy Võ Văn Hùng đã một lần cứu mạng và biến phi hành đoàn PT 725 trở thành là một phi hành đoàn ưu tú, đã cố gắng khắc phục được những giây phút nguy ngập của phi vụ kinh hoàng trong điều kiện thiếu thốn phương tiện an phi của Quân đội VNCH. Và nhân viên phi hành đoàn cũng đã may mắn sống sót sau cuộc chiến tranh Việt nam tàn khốc.

Thành Giang

Chân thành cảm ơn Cố Thiếu tá Huỳnh Ngọc Nghĩa, Trung úy Võ Văn Hùng, Lê Văn Đệ và Hạ sĩ I Dương Phong Hi của Phi hành đoàn ưu tú Papa Tango 725, phi đoàn Phượng Long 431. Đã cùng nhau chia sẻ Những Gian Nguy Đời Lính Không Quân. Đã hoàn thành công tác “cầu không vận tháng Tư Đen 1975” tốt đẹp trên VÙNG TRỜI MÁU LỬA VIỆT NAM.



Wednesday, January 11, 2017

Bún Bò

Thiên ký sự đặc biệt dành cho những người con xứ Huế và người muốn tìm hiểu về bún bò Huế.

Trần Kiêm Đoàn

Bún không phải chỉ đơn thuần là một món ăn truyền thống của Huế, nhưng đối với người Huế, bún còn là một phần lối sống “Kiểu Huế”.

Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn,... ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng.. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch).

Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương... Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha.

Tô bún bò Huế cũng là một biểu hiện của văn hóa Huế vì đây cũng là một sự “dấy nghĩa” trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẩn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở” thành một thể hài hòa. Huế đã dùng sả để “chuyên trị” thịt bò chứ không dùng ngủ vị hương để chuyên trị như truyền thống lâu đời ở Trung Hoa và miền Bắc.

Tô bún Huế mang hưong vị “rất Huế” để mà cảm nhận và thưởng thức như cảm nhận và thưởng thức mùi khói sóng buổi chiều trên sông Hương. Tự nhiên như: “Nó ngon thì tại nó ngon. Có chồng thì phải nuôi con, thờ chồng”. Cái dễ giận nhất của người Huế là "mình cảm thấy..." mà không cần lý luận. Bởi vậy, hình như càng đem lý tính để phân tích các món ăn Huế, cái hiểu về hương vị thực tế càng xoải cánh bay xa...

Bún Bò Huế. Ai ở xa nghe như thể Huế là vùng đất thổ sản của bò, giống miền Nam Mỹ Texas . Thật ra, tìm một trại bò trên đất Huế cũng khó như tìm lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Tô bún bò Huế cũng là phản ánh cái tham vọng thu nhỏ của người Huế vì muốn dùng cái “lượng” giới hạn để đạt tới cái “phẩm” vô cùng. Bởi vậy, ngoài những chất liệu cay chua ngọt bùi của trần gian, tô bún Huế còn được “nêm” thêm ít nhiều gia vị vô hình của cái tâm chủ quan và cái linh của hoàn cảnh Bà Bún.

Suốt cả thời thơ ấu, tôi sống ở làng, quanh năm chỉ có “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên...” là đẹp nhất.

Hàng năm, sau dịp Tết, người trong làng lại bắt đầu chuẩn bị lễ đầu năm. Mẹ tôi lễ vào ngày 19 tháng giêng để kịp ngày 20 đi coi giò gà và dự lễ tế Bà Bún tại làng Vân Cù.

Mỗi năm, tôi được ăn bún khá nhiều lần nhưng hai lần trọng đại nhất và ngon nhất là trong dịp lễ đầu năm của mẹ tôi và trong ngày lễ tế Bà Bún tại Vân Cù.

Muốn nói đến Bún Bò Huế thì đừng quên trước hết phải nói đến con bún, vì tô bún là một tổng hợp hài hòa giữa con bún và nước bún. Thiếu một trong hai là kể như có Adam mà không có Eva, có Phạm Lãi mà thiếu Tây Thi! Và, nói đến con bún Huế thì không thể không nhắc đến chiếc nôi của bún là làng Vân Cù..

Làng Vân Cù nằm cạnh sông Bồ, là con sông ăn thông với sông Hương qua nhánh sông Đào. Vân Cù cách Huế chừng 10 cây số về phía Tây Bắc. Từ xưa, Vân Cù là lò bún tập thể cung cấp bún cho cả Huế, Thừa Thiên, ra tới Quảng Trị và có khi vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết người làng Vân Cù tuy sống về nghề nông nhưng ai cũng có lò bún trong nhà.

Cũng như rất nhiều nghề thủ công khác ở Huế như nghề Thợ Rèn ở Làng Hiền Lương, nghề Đan Thúng Mủng ở làng Bồ La, nghề Thợ Vàng ở làng Kế Môn, nghề Nuôi Tằm ở làng Dương Sơn, nghề Chằm Nón ở làng Hương Cần, nghề Đan Nôi Bội ở làng Liễu Hạ, nghề Gạch Ngói ở làng Nam Thanh... nghề Làm Bún ở làng Vân Cù là một công việc làm ăn truyền thống và độc đáo riêng của từng đơn vị sản xuất gia đình trong làng, có tính cách cha truyền con nối từ đời nầy qua đời khác. Tất cả dây chuyền sản xuất đều làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, nhưng thành phẩm thường đạt đến mức tinh luyện mà người khác làng khó lòng bắt chước nổi.

Thủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù là một bà, tục gọi là Bà Bún. Thời gian đã xoá nhòa danh sách của những người muôn năm cũ nên chẳng còn ai nhớ tên thật của Bà Bún. Trong những câu chuyện dân gian truyền miệng về cuộc đời của Bà Bún, tôi còn nhớ mãi chuyện kể của bác Cửu Am với mẹ tôi rằng:

Vào một thời xa lắc xa lơ, khi có những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những Tháp Chàm cổ xưa đã đổ nát nên sau nầy có tên là làng Cổ Tháp, thuộc huyên Hương Điền. Trong số đó có một người thiếu nữ đẹp, có lẽ cũng mắt lá răm, môi cắn chỉ, má lúm đồng tiền... nên rất được nhiều người mến chuộng. Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề canh tác làm ruộng thì người thiếu nữ nầy miệt mài chuyên nghề làm bún. Bún nàng ngon quá hay vì nàng xinh quá mà làm cho bao người ăn quên cả đường về. Rượu không say bún say mới ngại... Vì vậy nên nhiều người ganh tỵ. Rồi một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm. Người ta cúng, tế cầu thần linh cứu giúp. Gặp cơ hội nầy, kẻ xấu bụng tung tin rằng, mất mùa là do thần linh quở phạt vì Cô Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời, phơi mao ngậm sữa” ra mà ngâm, mà chà, mà xát, mà nghiến nát ra để làm bún. Thế là nhà nông bắt đầu nổi giận. Hội Đồng Thị Tộc của làng họp bàn và ra lệnh cho Cô Bún phải bỏ nghề làm bún hay sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, nhưng Cô Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi.

Vì bản chất hiền lương và thuần hậu nên Cô Bún được làng ban ân cho phép chọn lựa hướng đi và cử năm người thanh niên mạnh nhất trong làng theo áp tải. Mỗi thanh niên sẽ cõng cái cối đá làm bún của Cô đi một chặng đuờng cho đến khi mệt đuối sức thì người khác tới thay cho đến hết người thứ năm là vùng đất mới của Cô Bún. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông cặp theo sông Bồ không nghỉ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù sau nầy. Nơi đây đã trở thành “đất lành chim đậu” cho Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề làm bún đời đời qua bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và dân tộc..

Người ta thường ví von “mềm như bún” nhưng cái mềm Đông Phương lại là cái dẻo dai bền bỉ để sống còn trên bước đường vạn dặm. Thân gái dặm trường, Bà Bún đã vượt Hoành Sơn vào Huế. Chim đã về núi, Bà đã về dất nhưng Bún Huế vẫn còn tươi rói với nhân gian như có người đã hát nửa chơi, nửa thiệt: “Hoành sơn nhất đái chim về cội. Vạn đại dung thân đọi bún bò”.

Bún tự nó đã là một món ăn thanh đạm của người Huế, nhất là vùng quê. Bún Vân Cù được làm ra dưới ba hình thức: Bún con, bún lá và bún mớ. Bún con hay bún vắt là một lọn bún quấn lại với nhau, dài vừa nắm tay như cuộn chỉ thêu, rất tiện lợi cho việc ăn uống đơn giản và đạm bạc trên nương, ngoài đồng, giữa đường. Chỉ cần một chút nước mắm ớt và năm, bảy con bún vắt thì bác nông phu trên đường về, chị chủ quán rộn ràng giữa chợ, em bán hàng rong lang thang... có thể tay cầm con bún chấm vào nước mắm ăn ngon lành ngay trên “hiện trường” vừa ngon miệng, vừa ấm lòng, vừa khỏi lơ là công việc..

Bún lá là một lớp bún trải trên lá chuối tươi, cuộn tròn cỡ bằng cái bánh tráng trung bình. Bún trắng nổi trên lá xanh mang vẻ đẹp trinh nguyên nên vừa bắt mắt, vừa bắt miệng. Bún lá thường là đơn vị bún cho cá nhân và gia đình: Mỗi người một rá, mỗi lá một tô.

Bún mớ, còn gọi là bún “ngảo” hay bún kí-lô. “Ngảo” là cái rổ nhỏ thường dùng như một đơn vị đo lường ở các vùng quê của Huế trong khi “kí lô” là đơn vị đo lường mới xuất hiện sau này. Bún mớ là bún sản xuất đại trà với số lượng lớn để buôn bán, đổi chác trên thị trường.

Thật ra cả ba loại bún cơ bản là giống nhau, đều có màu ngà đục khi sống và màu trắng trong khi đã luộc chín. Người ta thường dùng danh từ “bún tươi” để chỉ bún mang trực tiếp ra từ lò và “bún luộc” để chỉ con bún được luộc chín từ bún khô. Con bún Huế điển hình có độ dai vừa phải, không “đai hoai” như bột lọc nhưng cũng không bở rệt như bột gạo. Thường người ta dùng đinh 3 phân ( khoảng 1/8 inch) để đục lỗ thoát trong khuôn bún hay để ước lượng độ lớn của con bún. Trong thực tế, bún lớn hay nhỏ là do bàn tay khéo léo của người cầm “rây”. Muốn sợi bún nhỏ, ngay khi những con bún sống đang chảy xuống nồi nước sôi để thành bún chín, chỉ cần đưa cái khuôn đầy bột lên cao; muốn có con bún to thì hạ khuôn xuống thấp. Bún nhỏ là bún kim để làm bún khô hay bún Tàu dùng nấu canh và bún to hơn là bún thô dùng để xào trộn thức ăn trong những dịp giỗ, Tết. Bún con và bún lá thường được cho là ngon hơn có lẽ vì được sản xuất đầu nước nên láng lẩy và tươi tắn hơn: “Bún đầu nước thì ngon, con đầu nước thì dại (?)”.

Ngoài cơm và khoai sắn, có thể nói rằng, bún nói chung là món ăn truyền thống được phổ biến rộng rãi nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như khắp năm châu. Các loại bún truyền thống miền Bắc thì có bún riêu, bún thang, bún mộc, bún ốc.... Bún từ Đàng Ngoài đã theo bước chân Nam tiến đi vào Đàng Trong, rồi chọn đất Thuận Hóa làm nơi nghỉ bước và đâm chồi nẩy lộc thành bún Huế. Bún Huế gồm nhiều loại, mỗi loại có một lịch sử và tính chất độc đáo khác nhau: Bún nước mắm, bún mắm nêm, bún giấm nuốc, bún riêu, bún xáo, bún măng, bún thịt nướng, bún chả tôm, bún bò, bún giò... và bún bò giò heo. Bún bò Huế, tức là bún bò giò heo được ưa chuộng và phổ biến nhất.

Theo thời gian và không gian, bún bò Huế có lúc và có nơi chỉ còn là một cái tên nhưng phẩm chất, đặc tính, mùi vị... đã hoàn toàn biến đổi. Nhiều người vẫn tẩn mẩn tự hỏi, không biết tô bún bò Huế thời vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và tô bún thời vua Bảo Đại thoái trào năm 1954 có gì khác nhau trong cung đình và ngoài phố chợ.

Có điều rõ ràng là khách ăn bún Huế sẽ cảm thấy tô bún An Hoà khác hẳn tô bún An Cựu, nơi nầy có thêm lát chả, nơi kia có thêm miếng huyết, nơi nọ có chút rau thơm và chuối cây xắt mỏng lơ thơ. Càng đi xa, tô bún ở Đà Nẵng không giống tô bún Sài Gòn; tô bún Huế Ca-li khác xa tô bún Huế Texas.

Bún bò Huế vẫn thường được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là cuộc thi nấu các thức ăn đem ra đấu xảo tại chợ Tết Gia Lạc có từ thời Minh Mạng, do Định Viễn Công Nguyễn Phước Bình, con thứ tư của vua Gia Long lập ra. Chợ Gia Lạc nằm giữa chợ Mai và chợ Nam Phổ ngày nay và cũng là vùng đất có Tùng Thiện Vương và Tuy LýVương, hai vị hoàng thân nghệ sĩ đã vang bóng một thời.

Lúc đầu chợ chỉ mở ra cho các người trong thân nhân phủ đệ, sau thấy đông vui hấp dẫn, dân thường trong vùng lân cận như Dương Nổ, Nam Phổ, Thế Lại, Ngọc Anh... tìm đến và cũng được các ông hoàng bà chúa cho vào tham gia buôn bán và tổ chức các trò chơi. Hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp, chợ Mai đông buổi sáng và chợ Nam Phổ đông buổi chiều để nhường chỗ cho chợ Gia Lạc tưng bừng vui hội Tết. Đông vui và nhộn nhịp nhất là trong ba ngày mồng một, mồng hai và mồng ba Tết Nguyên Đán. Đây là phiên chợ của hàng con vua cháu chúa, nhưng đồng thời cũng mở rộng ra cho bàng dân thiên hạ đến vui Xuân.

Theo tương truyền, trong một năm, món bún bò giò heo của Mệ Lựu đã chiếm giải nhất và được phê là “Thập toàn. Ngũ đắc”. Thập toàn là mười diều hoàn thiện của một món ăn ngon, đại khái như: ngọt ngào, thơm tho, đậm đà, bổ dưỡng, tinh khiết, bắt mắt, khéo chọn, khéo tay, khéo nấu, khéo bày, bún bò Huế còn được đánh giá cao là vì tính chất bình dân và p hổ thông trong bá tính: Mọi người ai cũng biết được, ai cũng ăn được, ai cũng nấu được, ai cũng tìm được vật liệu ngay tại địa phương, ai cũng có thể có dịp mua được (ngũ đắc). Phải chăng vì bún bò giò heo cũng mang tính truyền thống dân gian như bánh chưng, bánh dày thuở trước.

Nếu gặp một người Huế nào đó ở vào lứa tuổi trung niên hoặc già hơn mà hỏi thăm thế nào mới thật là bún bò Huế và bún bò nơi mô ở Huế là ngon nhất, chắc chắn sẽ có hơn chín mươi phần trăm trả lời là, "bún bò Mụ Rớt".

“Bún bò Mụ Rớt có nêm sâm nhung quế phụ vô hay răng mà ngon dữ rứa?”. Một lần nào đó đã có người tò mò lên tiếng. Rồi cũng có người đáp lại, “Có chi mô, mụ Rớt cũng ra chợ Đông Ba mua rau, mua thịt như mình nhưng mụ nấu ngon vì có hoa tay”. Hoa tay? Hoa tay của ông đồ Vũ Đình Liên là để thảo những nét chữ như rồng bay, phượng múa, nhưng hoa tay của mụ Rớt là để nấu những tô bún bò thanh nhã, ngọt ngào “ăn ngậm mà nghe”. Chừ ri hỉ....!

Cứ tưởng tượng mình đang ở Huế.

Vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa, một buổi trưa không biết ở thời nào, một buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ... Và, có tiếng ve đất cuối mùa kêu sau vườn nhưng nghe như xa lắc. Nắng xế cuối mùa của Huế thường phai như màu tóc muối tiêu. Rồi có tiếng xe đạp của ai đó phanh lại trước sân, ba bốn đứa bạn thân rủ nhau đi ăn bún. Con đường Chi Lăng dẫn về Gia Hội chen giữa hai hàng phố cũ với những căn nhà xưa kiểu Tàu pha một căn hai chái, cột mệ cột con đề huề trông thâm nghiêm nhưng thấp bé một cách tội tình. Trước khi rẽ qua đuờng Ngự Viên đi ngang "mả ông trạng" sau lưng chùa Diệu Đế, hãy ghé lại một căn nhà dãy phố bên phải: Đó là tiệm bún bò Mụ Rớt. Huế làm ăn theo lối "hữu xạ tự nhiên hương", không bảng hiệu, không quảng cáo mà chỉ cần nghe tiếng tìm vào.

Khách vô tiệm tự nhiên và lặng lẽ như ghé lại bến đò. Cứ tìm bàn nào trống, ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu không có chỗ dựa lưng, ngó một loáng bâng quơ người quen và người lạ, sẽ có người hỏi:

- Mấy o, mấy cậu thời bún chi?

Khách chỉ có lựa chọn giữa bún khô và bún nước:

- Dạ, cho mấy tô bún nước

Lát sau, mấy tô bún bò giò heo bốc khói, mùi thơm tỏa ra dìu dịu, được bưng ra đặt trên bàn. Bún được nấu nướng từ sau bức tường của dãy nhà ngang trông vào có vẻ phòng the hơn là bếp núc.

Tô bún bò Huế mới thoạt nhìn, có vẻ đạm bạc và thanh lịch như chiếc áo dài phin trắng nõn nà. Tô bún chỉ lớn hơn bàn tay búp măng xoè ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún trắng nằm sóng soãi vươn lên miệng tô. Nước bún không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng giò heo búp, mỏng bằng hai phần lóng tay. Miếng giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún. Che mái cho tô bún là ba bốn lát thịt bò bắp xắt mỏng, những lát bò bắp với thớ thịt chắc nịch nâu đỏ và những đường vân vàng nhạt của nạm, gầu, gân, sách.

Trên bàn đã có sẵn đũa tre, muỗng sành, nước mắm, ớt tương và rau hành chanh múi. Một dĩa nhỏ hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mưót điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị. Rau hành của bún không phải là rau sống cuả phở, rau chỉ đóng vai trò “nước hoa” cho tô bún. Trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát. Cái cay của ướt tươi là đậm đà, mọng nước, đủ sức khống chế những cao thủ ớt đã nếm đủ vị giang hồ mà vẫn còn thấy nhạt. Cạnh đó là dĩa ớt tương nhỏ xíu màu huyết dụ; ớt tương của bún bò Mụ Rớt cũng được liệt vào hàng "gia vị bún bò bắc đẩu", nhìn thì có cái vẻ mềm như nhung với màu đỏ sẫm, điểm những hột ớt vàng hoe nhưng nếm vào mới biết thế nào là cái “hiền” của Huế. Gắp một tí ớt tương đầu múi đũa bỏ vào tô là ớt từ từ bung ra như nhụy hoa trên mặt nước bún. Hoa hồng thường có gai, nên nhụy hoa bún cũng làm cho biết bao người cay giọt ngắn, giọt dài!

Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện phần nào phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen... là những biểu hiện thường tình trước tô bún.

Khi đã nêm xong, húp một muỗng nước bún khai vị để cảm nhận được cái chất ngọt thanh pha đủ mùi gia vị. Mùi sả, mùi ruốc, mùi xương hầm, mùi thịt luộc, mùi chanh, mùi rau, mùi tiêu hành nước mắm... đã biến chất, đã quyện vào nhau tạo thành mùi bún bò có sức hấp dẫn lạ lùng riêng của nó. Miếng giò heo thanh nhã trong tô bún với lớp da mỏng có bìa da úp quanh miếng thịt nạc như đài hoa chưa nở nên thường gọi là giò “búp”. Cắn miếng giò, những sợi thịt trắng vừa béo, vừa ngọt vẫn còn thơm mùi thịt tươi mới chín nhẹ nhàng bốc hơi trên hai cánh mũi. Gắp lát thịt bò bắp. Lát thịt bò mỏng với những đường gân, sứa thịt và viền mỡ dòn tan giữa hai kẻ răng và vị ngọt béo miên man trên đầu lưỡi. Tô bún bò Huế vơi dần nửa như thách thức, nửa như mời gọi khách rằng, chưa cạn hết tô chưa gác đũa.

Tô bún bò Mụ Rớt được xem là đặc trưng cho tô bún Huế là vì nó mang những nét thanh đạm và đơn giản. Có thể nói cái thanh của bún Huế ví như những nét đan thanh của tà áo trắng, tà áo dài mỏng manh cửa đóng then gài ngỡ như là tử cấm thành của phái đẹp thần kinh, nhưng lại kín đáo phô bày trọn vẹn những nét đẹp trên thân thể của người mặc. Người mặc áo Kimono của Nhật chỉ cần một khuôn mặt đẹp, nhưng người mặc áo dài Việt Nam khó mà che dấu được những nét mỹ miều hay thô thiển của thân hình.. Cũng tương tự như vậy, một tay nấu bún “hạng lông” có thể nấu một tô bún thập cẩm với tấp nập thịt thà rau cải rềnh rang như chiếc áo Kimono, nhưng lại khó có thể nấu một tô “bún-bò-áo-trắng” kiểu Huế thoạt nhìn tưởng như là quá đơn giản mà ẩn dấu lắm công phu.

Linh hồn của tô bún bò Huế là nước bún. Nước bún là nước được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi, và có khi là cây, củ... Phần khó nhất trong việc nấu nước bún là giữ cho nước trong, ngọt thanh, không mỡ màng, không lềnh bềnh gia vị. Những “trường phái” bún bò khác nhau ở Huế thường dấu bí quyết nấu nước bún vừa trong vừa ngọt, nhưng tất cả đều có điểm cơ bản khá giống nhau là cách chọn xương hầm, cách luộc tái rồi đổ nước đầu tiên, cách vớt và lọai bỏ bọt thải đúng lúc, đúng điệu, thường là yếu tố quyết định trình độ cao thấp của “tay nghề”.

Bún sợi thật sự là bún tươi, trắng ngà, có độ dẻo và độ lớn vừa phải.

Thịt heo trong tô bún chỉ đơn giản một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Giò luộc vừa chín, không quá lửa làm cong queo, mềm nhũn, thoang thoảng gia vị vừa ăn; thơm nhưng không mất mùi thịt heo nguyên thủy.

Thịt bò trong tô bún là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với đồ màu và tránh tình trạng quá lửa làm “bò teo, heo nở”. Gia vị chủ lực của bún bò Huế là sả, ruốc và ớt, nước mắm. Tinh dầu của cây sả có mùi thơm rất nồng, đủ mạnh để làm trung hòa mùi ruốc và giúp cho mùi thịt trộn tiêu hành nước mắm trở nên dịu và ngào ngạt hơn. Dầu sả nhẹ hơn dầu mỡ nên làm cho nước bún nổi sao óng ánh, tránh được những váng mỡ nặng nề làm cho người ăn ái ngại. Một cây sả tươi cần chọn đoạn giữa vừa thơm, vừa phong phú tinh dầu. Đừng quên sả gốc nồng và chát, sả ngọn ít thơm và dễ làm cho nước bún nhiễm màu xanh của lá.

Trong nồi bún, nếu sả quyết định cho hương thì ruốc quyết định cho vị. Ruốc phải đánh loãng và thải hết chất bã. Ruốc nêm lúc nước còn lạnh để khỏi nặng mùi. Ruốc nêm đúng phân lượng sẽ làm cho nước bún có vị ngọt đậm đà và mùi thơm phảng phất chất mắm muối quen thuộc của đồ ăn Việt Nam. Ruốc nêm thiếu, nước bún sẽ “ỏn”, nghĩa là lạt lẽo, kém vị, thiếu mùi như nước ốc. Ruốc nêm thừa, nước bún sẽ “hăng”, nghĩa là mùi vị nặng nề, không tỏa ngát quanh tô bún mà có vẻ như chìm lỉm trong nồi nước bún.

Bên cạnh kỹ thuật và kinh nghiệm của người nấu, chất liệu cũng đóng một vai trò quan trọng cho hương vị của tô bún Huế. Chẳng hạn như thịt heo nấu bún Huế thường lấy từ thịt heo cỏ. Đó là giống heo nhỏ nuôi bằng rau, chuối nấu với cám gạo cốt để vừa lấy phân, vừa lấy thịt. Heo càng lớn càng dài ra và thịt rắn lại chứ không phát triển “sồ sề” như giống heo mẹo nuôi trong kỹ nghệ lấy thịt sau nầy. Giò heo do đó vừa chắc, vừa thơm, vừa ít mỡ. Giò heo lý tưởng cho tô bún là giò sau: “Nấu giò sau, cho nhau giò trước”.

Ngoài ra, rau hành, gia vị... thường được các bà Huế nêm theo kiểu “luyện công” nên mọi thứ đều được tính toán chi li vừa đủ phân lượng cần thiết. Có dịp nhìn một bà Mỹ vào bếp với dáng kích động như muốn nhảy “Disco” với soong chảo, một bà Nam nếm đồ ăn trên lò, miệng chưa tắt nụ cười vui sau câu cải lương mùi mẫn.... mới thấy được hình ảnh tay cầm đũa, mắt đăm đăm, môi chút chíp nêm đi nếm lại như đang “truyền tâm ấn” của một bà Huế trước nồi bún đang sôi là “thục nữ thần kinh”. Chính yếu tố địa phương, hoàn cảnh và tâm lý đã làm cho tô bún bò Huế trở thành ngon và độc đáo hơn vì nó được chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức trong mức độ vừa đủ về lượng cũng như về phẩm.

Sự dễ dãi về hoàn cảnh sinh hoạt và phong phú về điều kiện vật chất có vẻ như có một tác dụng nghịch chiều cho tiến trình tạo nên cái vẻ thanh nhã truyền thống của tô bún bò Huế. Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt như tà áo trắng biến thành áo gấm với phượng vẽ rồng thêu. Bún Huế chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác: Tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô “phở bún” xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò Mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành “bún bò Mụ Rớt Nam Bộ”. Bún bò Huế càng được chiếu cố rộng rãi chừng nào, sự “sáng tạo” và biến thể càng nẩy mầm trăm hoa dua nở chừng đó. Đến nỗi, một người thích “khảo” về các món ăn miền Trung gần đây như ông Đinh Miên đã phải lên tiếng “xóa óa” khi nhắc về bún bò Huế tại Mỹ trong bài “Cơm Việt, Quê Người”:

“Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng!” (Việt IX - 95). Ông Đinh Miên thuộc về trường phái “chịu chơi” khi luận về bún Huế. Ông cởi mở đón nhận sự chuyển mình của tô bún với vẻ cười cợt hồn nhiên như người đã biết là không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông. Cũng có người muốn “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” lên tiếng cho rằng, tại sao những món ăn truyền thống của thế giới như Pizza của Ý, Kabob của Ba Tư, Taco của Mễ, Kentucky Fried Chicken của Mỹ, Mì Triều Châu của Tàu... đi đâu cũng nghe cùng một hương vị, mà Bún Bò Huế lại có người nấu Sở kẻ nêm Tần như vậy, sợ một ngày kia “mất giống” tìm đâu!? Có lẽ không ai trả lời được câu hỏi đó vì món ăn là một phần của văn hóa mà gốc của văn hóa là con người. Khi đất nước và con người còn đó thì ngại gì tô bún đổi thay.

Tuổi già của Huế thích lui về sống ẩn dật với quê hương, gần gũi với bà con làng xóm và mồ mã tổ tiên, nhưng tuổi trẻ lại thích bay xa tới những phương trời mơ ước. Niềm ước mơ của một đứa trẻ lớn lên sau lũy tre làng như tôi là làm sao được lên Huế học. Thành phố Huế cách làng tôi chưa đầy một giờ đi xe đạp nhưng đối với tôi thời nhỏ nó vừa thực vừa mộng như một vùng đất hứa. Có những buổi chiều đứng đầu ngõ nhìn những người lên Huế sắm hàng với các món đồ gói trong giấy, trong hộp đầy màu sắc gọi là “đi Dinh mới về”, tôi ước chi mình sẽ được lên Dinh. Tuy không có quy định thành văn nhưng con đường duy nhất để được lên Dinh ăn học đối với tuổi trẻ ở làng như tôi là phải thi đậu “Càng Cua” (concours) trước đã, đó là kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ thất trường công mà trong toàn tỉnh Thừa Thiên chỉ có thành phố Huế mới có. Mẹ tôi thường nhắn gởi: “ Chuyến ni mà con thi đậu "càng cua", cực mấy mạ cũng gắng lo cho con lên Dinh học”.

Mẹ tôi dắt tôi lên Huế hai ngày trước khi thi “càng cua”, đi qua đi lại trước trường Hàm Nghi (ngày xưa là Quốc Tử Giám) nhiều lần cho quen đường đi nước bước. Tôi ở lại nhà chị Quyến tôi nơi đường Ô Hồ. Buổi sáng ngủ dậy, chị kêu gánh bún vào ăn điểm tâm.. Gánh bún õng ẹo trên đôi vai o gánh bún, có khói và hơi bốc nhè nhẹ xung quanh như một đầu máy xe lửa xuống đèo. Nghe chị đặt hàng, tôi có cảm giác hơi là lạ:

- O múc cho tô “trung”, bún vừa, nước xắp xắp thôi. Cho giò nạc búp, thêm cái ngoéo. Đổi huyết lấy bò bắp xắt vô. Khoát bớt ớt màu, bỏ hành rau răm rươi rươi thôi, ớt tương nước mắm bỏ riêng...

Người bán bún chừng như đã quá quen thuộc với lối đặt hàng rắc rối đó nên làm thinh múc bún. Nồi bún nóng thân tròn, miệng uốn trông như chiếc lư đồng cổ không nắp không chân, đặt trên lò lửa riu riu đỏ. Tay o cầm cái vá cán dài, quây một vòng trong nồi bún với dáng tay nhẹ nhàng và điệu nghệ như cô vũ nữ Thái múa điệu cánh sen. Cái vá dừng ở đâu trong nồi nước bún là “bắt” được ngay miếng thịt, miếng giò đang cần, chính xác như ra-đa tìm thủy lôi.

Một lát sau o mới hỏi:

- Ai ăn rứa?

Chị tôi trả lời một cách hãnh diện:

- Thằng em tôi dưới làng lên ở lại thi “càng cua”.

Tự nhiên o bán bún coi bộ quan tâm:

- Nì, nói chuyện vô duyên chơ học trò đi thi không nên ăn giò búp: búp hoài không nở thì mần ăn chi nữa. Để tui múc cho một cặp giò ngoéo: ngoéo trước, ngoéo sau thì rớt đi mô được, thi đậu chắc nụi!

Chị tôi coi bộ cảm động ra mặt vì gặp được “Thầy”... bún, nên nhiệt liệt ủng hộ ngay:

- May có o nhắc chớ không thì khổ em tui rồi. Rứa! Múc ngoéo vô đi o!

Thật tôi không ngờ bún Huế “linh” như vậy, nên hôm đó ăn tô bún Huế mà cảm thấy trân trọng và ngất ngây như uống rượu thánh.

Về làng, tôi thường ăn bún với nước mắm ớt.. Mẹ tôi có mấy lu ruốc bự bành ky để ở nhà dưới, nước mắm nhĩ trong vắt nằm một lớp trên mặt. Đem lúa đổi lấy bún vắt hay bún lá, rồi múc nước mắm nhĩ từ trong lu ruốc, ra vườn hái ớt xé vào. Bún tươi chấm với nước mắm nhĩ pha thêm ớt trái mùa Xuân ăn ngon “nhức răng”. Thêm vào đó, một năm đôi ba lần được ăn bún với nước xáo lòng gà, thịt bò nên chú bé quê trong tôi cũng đã bằng lòng lắm với cuộc đời đầy đãi ngộ nầy rồi. Nay được ăn tô bún Huế với những thịt thà thơm phức, với cách nấu bún công phu, cách múc bún điệu nghệ... làm cho tôi cảm thấy được “lây” cái văn minh sang cả của người thành phố.

Ngày đi thi, tôi dậy sớm trước khi gà gáy lại, hồi hộp chờ trời sáng để tới trường thi, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến tô bún Huế với cặp giò ngoéo có lớp da mềm mềm bao quanh những thớ gân dòn tan như ăn ổi đỏ ở làng. Hình như mới có hai buổi sáng trôi qua mà tôi nghe như đã bị phố phường cám dỗ. Buổi sớm tôi nghe mẹ tôi bàn bạc to nhỏ với chị tôi, rồi tiếp theo đó có người gánh gánh xôi vào trước hiên. Nhìn dĩa xôi đậu xanh chấm muối mè bày ra trước mặt, tôi bắt đầu hoang mang. Mẹ tôi hối:

- Ráng ăn xôi đậu muối mè đi con!

Khi tôi ngao ngán ngáp dài kêu mệt quá và muốn ăn bún chứ xôi đậu, muối mè khô khan quá nuốt không vô, mẹ tôi dịu dàng an ủi:

- Con thi xong rồi, ưng ăn bún cả gánh mạ cũng cho. Con di thi “càng cua” mà ăn bún vô trơn, nói trời không nghe lỗ miệng, chớ nó truột di thì thi hỏng mất! Lúc trước mấy cậu con thi chi hỏng nấy là vì không nghe lời mệ ngoại, cứ dè ngày thi cử mà ăn bún không kiêng cử nên thi trợt tuốt luốt, phải xếp sách vở về quê đi cày. Chừ con gắng ăn xôi đậu, xôi muối mè dính mô chắc nấy, trời mới cho con đậu.

Từ đó về sau nầy, tôi thường cố “cữ” ăn bún mỗi lần có thi cử. Ngay cả hơn 30 năm sau, khi tóc đã điểm bạc trên bước đường lưu lạc ở quê người, có những lần đi thi chuyên môn, đi phỏng vấn việc làm, đi thi tốt nghiệp trong trường đại học Mỹ, tôi vẫn “kiêng” ăn bún nhưng chỉ tìm cách né tránh âm thầm chứ không dám nói ra vì sợ bị chọc quê. Thật ra, mỗi lần đụng đến thi cử là tôi lại nhớ mẹ đến quặn lòng, nên tôi cử ăn bún để được cái cảm giác ấm áp thiêng liêng như hôm đó mình đang có mẹ thật gần

Đến khi lên Huế học, những huyền thoại về bún bò Huế càng có vẻ mọc cành mọc lá sum sê hơn. Thế giới học trò cũng nhỏ bé và xinh xinh như thành phố. Phía sau trường Hàm Nghi của tôi là Viện Bảo Tàng và nhà thờ Nguyễn Phước Tộc hay là Tôn Nhân Phủ.. Bên kia đường là cửa Hiển Nhơn vào Đại Nội. Kế đó, có hai trường văn nghệ nhất Huế, đó là trường Quốc Gia Âm Nhạc và Cao Đẳng Mỹ Thuật mà lũ học sinh nghịch ngợm của chúng tôi thường chọc mấy anh chị sinh viên bằng cách gọi là “Trường Kèn” và “Trường Cọ”. Sinh viên hai trường Kèn Cọ thường la cà ở quán cà phê Tôn, nơi đó, thật ra chỉ là một chiếc xe kiểu xe sinh tố đặt mé trái trước Tôn Nhân Phủ do vợ chồng bác Tôn đứng bán bún bò và cà phê. Giới nghệ sĩ lang thang thường bàn luận một cách công khai rằng, ngày nào vợ chồng bác Tôn không cãi nhau là ngày đó bún bò không ngon vì thiếu đi cái “tinh thần hào sảng” của cặp vợ chồng bác Tôn khi nấu bún.

Giới văn nghệ sĩ cà phê Tôn còn đi xa hơn khi kháo nhau rằng nếu lỡ một mai kia, lịch sử thành thơ đưa họ lên làm lãnh tụ, thì họ sẽ đặt tên con đưòng từ Vỹ Dạ lên Ga Huế là "Đường Cơm Hến" và đường từ cầu An Cựu lên cầu Trường Tiền là "Đại Lộ Bún Bò" vì mỗi buổi sáng tinh sương, dọc trên con đường nầy có cả đoàn bún gánh phát xuất từ An Cựu tỏa ra khắp thành phố Huế. Khói xanh đun nồi bún bay phơ phất trên đường như một sự mời gọi êm đềm: Bún bò An Cựu, cơm hến Đò Cồn, trứng lộn Chợ Dinh, bánh canh Nam Phổ... Cũng may hay cũng buồn, lịch sử không phải là thơ nên tuy Huế có những con đường tình cảm mang tên kỷ niệm và giai nhân bất thành văn như đường Hàng Me, đường Áo Trắng, nhưng vẫn chưa có tên đại lộ Bún Bò.

Bản thân tôi từ một vùng quê ruộng đồng lên tỉnh học, sau mấy năm học đòi văn hóa Huế, cũng bị nhiễm bún bò rất nặng.. Tôi đã ưu tư nhiều về sự hiện diện của bún bò giò heo kể từ khi làm quen với một cô hàng xóm nhân dịp cô đi xe đạp, vạt áo dài tung bay phất phới và cuốn theo chiều gió mà quấn vào trong giây "sên", trong "ổ líp". Tôi bèn ra tay cứu khổn phò nguy gỡ áo em ra và không quên bôi thêm dầu sên lên tay lên mặt cho ra vẻ lẫm liệt, can trường. Tên cô là Mộng Hoàng, tất nhiên có cái họ đi trước rất chi là thế gia vọng tộc. Chỉ mới cái tên thôi cũng đủ biến tôi thành Trương Chi bên cạnh Mỵ Nương đi xe đạp mất rồi. ễ làng, tôi đi từ xóm trong ra xóm ngoài để sưu tầm những tên giai nhân đẹp nhất thì cũng chỉ có những Nguyễn Thị Gái, Trần Thị Chắt, Lê Thị Dẹp... đào đâu ra có Mộng, có Hoàng.

Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe đạp song song chung đường từ Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học. Đôi ba lần Hoàng quay sang phía tôi cười, một phiến ớt màu bún bò tí ti đỏ chói nằm trong góc chiếc răng khểnh trắng nõn nà của Hoàng. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần. Tôi lên tiếng, nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh. Rồi cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe.. Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:

- Ngó dữ chưa tề, dị chết!

Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:

- Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!

Khi lên xe đạp đi tiếp, Hoàng phàn nàn, cái phàn nàn mà tôi cho rằng đáng lẽ ra là một sự biết ơn:

- Me phiền dễ sợ! Sáng mô cũng bắt Hoàng ăn bún bò ớn phát sợ luôn.

Cái "ớn phát sợ" của Hoàng lại là cái ước mơ ngoài tầm tay của đám học trò nghèo như tôi. Cứ tưởng tượng mỗi buổi sáng, khi trời Huế còn lành lạnh mà được ăn một tô bún bò giò heo, có váng mỡ vàng mơ ngã hồng trên mặt, nêm thêm một "múi đũa" ớt tương màu huyết dụ chắc sẽ sáng mắt sáng lòng mà học một nhớ mười. So với một chén cháo gạo với muối trắng của tôi hay một chén cơm chan chút nước mắm ớt của tụi bạn cùng hoàn cảnh ăn điểm tâm trước khi đi học, tự nhiên một cảm giác hơi buồn buồn pha chút tủi thân lặng lẽ dâng lên trong lòng. Bún bò tự nó không có giai cấp, nhưng giai cấp tự nó có bún bò: Phận nghèo bấm bụng nằm co. Giàu thời nem chả, bún bò giò heo!

Tuổi trẻ của Huế êm đềm và dễ hòa diệu sống như giòng sông Hương. Tôi đã quên rất nhanh hình ảnh tô bún bò của Hoàng và chén cháo gạo của tôi. Hai đứa chưa bao giờ dám nói thương nhau mà chỉ lửng lơ nói chuyện đã cùng "thương con đường đi học".. Mỗi cô gái Huế đều có một bà chúa trong hồn và mỗi cậu con trai Huế đều có một ông hoàng trong bụng. Bà chúa thì thích sang mà ông hoàng thì thích ngọt, cho nên tôi đã nhẹ dạ nghe Hoàng dỗ ngọt mà hẹn hò lần đầu lên chùa Thiên Mụ và về ăn bún bò Kim Long. Chúng tôi đã phạm vào hai điều tối kỵ làm tan vỡ bao nhiêu mối tình đầu đẹp như mơ của Huế: Đó là hẹn hò lần đầu không được lên chùa Thiên Mụ và không được ăn bún.

Đồi Linh Mụ là đất thần kinh, nơi để chiêm bái chứ không phải là nơi tính chuyện ân tình hò hẹn.. Tình cảm trai gái chớm mầm trên đất thánh thì sẽ không bén rễ trong tim người. Còn ăn bún là trơn tru, không níu kéo như gừng cay muối mặn, nên cuộc tình rồi cũng theo bún mà trôi đi! Rất có thể bà Linh Mụ đã nhìn thấy tôi và Hoàng hò hẹn, cho nên mới "xui" về Kim Long ăn bún. Bởi vậy, nên tới Hè, Hoàng giã từ Đồng Khánh, chuyển qua Jeanne d'Arc để chuẩn bị đi Tây.

Kỷ niệm chia tay cũng êm đềm mà nhức buốt như những cơn mưa phùn tháng Giêng của Huế. Hoàng gởi cho tôi cuốn sổ lưu bút có giấy pơ-luya màu xanh, màu trắng, màu hồng; có thắt nơ tím với câu thơ tiếng Tây quá quen thuộc với tuổi học trò của Huế ghi nắn nót ở trang đầu: "Partir, c'est mourir un peu!... Ra đi là chết trong lòng một ít. Biết nói sao bây giờ?!". Tôi là học trò ban B (Toán - Lý Hóa toàn ròn) nên trong đầu lúc nào cũng lùng bùng ròng những đạo hàm và ẩn số của thầy Trần Tuệ và thầy Hồng Giũ Lưu.

Huế lại là vùng đất ưa hò vay trả. Đào đâu cho ra chút văn chương man mác nòi tình mà đáp lại cho Hoàng đây. Tôi bỏ cả việc đi trại Hè để cố đào cho ra dăm câu thơ nếu không “ác liệt” thì ít ra cũng có vẻ môn đăng hộ đối với Hoàng. Bên tê dẫn thơ Tây thì bên ni phải trích thơ Mỹ. Tôi vô thư viện, tìm mục thơ tình lãng mạn để kiếm vài câu làm thuốc.

Thơ tình chết tiệt rủ nhau trốn đâu mất cả. Bí quá, bỗng vớ được vài câu thơ đề tựa cuốn sách của Helen Steiner Rice, tôi thấy như mở cờ trong bụng: “Somebody loves you than you know. And will always be with you wherever you go!” (Ai nào thấu hết tình ai.. Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm). Và, để phụ đề Việt ngữ tôi chọn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, đọc đi đọc lại đắc ý nổi da gà: “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!”.

Kèm với thơ thẩn là cái lược bằng gỗ trầm hương, vật kỷ niệm của mẹ, tôi xin và tặng lại cho Hoàng mà bỗng tự cảm thấy mình sâu sắc như một người tình trong chuyện thần thoại;Năm 1992 về lại con đường cũ, đọc thơ Xuân Hoàng mà nhớ bâng khuâng đốm ớt bún bò và nét cười răng khểnh:

Tôi đi trên đường Lê Lợi dọc sông Hương
Nắng trong suốt lọc qua hai hàng long não
Đất nước đổi thay qua bao mùa giông bão
Con đường xưa vẫn dáng dấp diệu kỳ...

Hơn mười năm, tôi mới có dịp trở lại chen chân trên đường phố Huế vào một buổi chiều 29 Tết. Đi trong nắng cuối Đông dìu dịu thương quen của Huế mà cứ ngỡ như mình mới xa Huế hôm qua. Nghĩ đến mai xa Huế tự nhiên tôi có cảm gíác như mình là kẻ phụ tình với Huế. Huế vẫn lặng lẽ chờ đợi như người tình trăm năm mà tôi thì cứ dứt áo ra đi lang bạt kỳ hồ.

Rồi quả đất cũng tròn và thế giới nầy cũng nhỏ nên “những kẻ phụ tình với Huế” vẫn có lúc gặp nhau ở quê người như một sự tình cờ của định mệnh.

Hơn 30 năm sau, rất tình cờ, tôi gặp lại Mộng Hoàng ở Little Sàigòn, Quận Cam Ca-li. Tôi nhận ra Hoàng, bà chủ tiệm ăn có tên vừa Tây vừa Huế, nhờ chiếc răng khểnh "thương bắt chết" vẫn tô điểm cho nụ cười duyên dáng ngày xưa. Tất nhiên, tôi từ phương xa ghé vào đây cũng vì món "bún bò Huế chính gốc". Nhắc chuyện cũ, cả hai đứa cùng cười ngặt nghẽo. Giọng Hoàng tuy phảng phất một chút âm vang trời Tây nhưng vẫn chưa phai màu Huế:

- Thời nớ, răng tụi mình dễ thương dễ sợ hí!

Tôi cười cười nhắc lại:

- Sau nớ, còn ai khêu ớt trên răng cho Hoàng nữa không?

Mắt Hoàng bỗng thoáng một chút trầm tư "nhắc làm chi sương khói thuở xa xăm" và ánh lên màu kỷ niệm:

- Lạ chưa tề. Nhắc chi nữa, dị chết!

Tôi nhìn Hoàng. Mắt bâng quơ đậu trên vài ba sợi tóc loà xòa điểm bạc. Hoàng biết và ngúng nguẩy che đi. Hoàng nói thật bất ngờ, giọng trang đài như đọc câu thơ tình thời cổ:

- Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc!Tôi hiểu Hoàng nói gì nhưng phản ứng như anh học trò cả ngố:

- Thơ của ai rứa Hoàng?Hoàng trả lời “mần đày”:

- Thơ ai? Thơ ông cai bến đò!

Đàn bà Huế mà đã “mần đày” thì Tần Thủy Hoàng cũng phải biết rằng mình đã lỡ vô tình, cần lẳng lặng chui vào ổ rơm nằm ngủ qua đêm. Rứa đó! Dân Huế suốt đời vẫn là những đứa trẻ thơ mỗi lần nhớ Huế, nhớ những kỷ niệm đã thiu thiu ngủ trong ký ức và trên quê mẹ của mình. Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế nấu bằng heo Mỹ, bò Anh, ruốc Tàu, bún Nhật.... Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà thì vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng.

Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải Vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ. Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên một tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi “Bún Bò Huế”, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại. Bún Bò Huế không còn là riêng của Huế mà hương sả nồng, vị ớt cay, mùi ruốc mặn đã thấm vào mạch đất quê hương và lòng dân tộc

Trần Kiêm Đoàn