Sunday, November 27, 2016

Tin Vui Về HOTEL Cho Hội Ngộ SĐ6KQ

Hotel Discount 20%

Một khách sạn tại trung tâm Little Saigon, California, USA, thủ đô của người Việt tị nạn cộng sản, rất thuận tiện cho các KQ từ xa về tham dự Hội Ngộ SĐ6KQ. Hotel đó là:

LITTLE SAIGON INN
14052 Brookhurst St.
Garden Grove, CA 92843
714-636-4890
Littlesaigoninn.com

Chủ nhân của Little Saigon Inn, KQ Nguyễn Đức Lê là phi công trực thăng trước kia, vừa tin cho một thành viên trong BTC, KQ Trần Duy Đức, một tin vui là, Little Saigon Inn sẽ discount 20% cho tất cả KQ từ xa về tham dự Hội Ngộ SĐ6KQ vào ngày 7 tháng 7 năm 2017 tới đây.

Vì là dịp lễ Độc Lập, nên các khách sạn tại Little Saigon sẽ rất bận rộn. Để dễ dàng cho đôi bên, Ban Giám đốc yêu cầu các KQ nếu muốn nghỉ ngơi tại khách sạn nầy với giá discount thì nên book phòng trước một tháng, (khoảng đầu tháng 6, 2017).

Xin chân thành cám ơn Ban Giám đốc Little Saigon Inn đã thể hiện tình Quân chủng qua ưu đãi trên và xin thông báo Tin Vui nầy đến các KQ khắp nơi đang chuẩn bị về miền trung Cali tham dự Hội Ngộ SĐ6KQ!

Thay mặt BTC
KQ Võ Ý



Wednesday, November 23, 2016

Bob Dylan Giải Nobel Văn Chương 2016

Tản Mạn Văn Học

Nói chuyện với nhà báo và nhạc sĩ Đinh Sinh Long về
Bob Dylan với ca khúc “Blowin’ in The Wind”
và Giải Nobel văn chương 2016

NguyễnMạnhTrinh: Mỗi năm cứ vào dịp đầu tháng 10 là dư luận trong giới văn học thế giới lại xôn xao bàn tán với câu hỏi là: Ai sẽ đoạt giải văn chương Nobel năm nay? Hội Đồng Tuyển Chọn của Hàn Lâm Viện Thụy Điển với thành phần gồm 18 giám khảo sẽ quyết định về giải thưởng cao quý này. Năm nay, trước ngày tuyên bố kết quả của giải văn chương, đã có những dự đoán và những người đánh cá cược, dưa vào những thăm dò riêng của họ. Như Ladbrokes’, đã tiên đoán người đoạt giải sẽ là Haruki Murakami, tiểu thuyết gia Nhật Bản, với tỉ lệ 1 ăn 4, thứ nhì là thi sĩ Syrian Adonis với tỉ lệ 1 ăn 6, thứ ba là tiểu thuyết gia Hoa Kỳ Philip Roth 1 ăn 7, thứ tư là Ngugi Wa Thong, tác giả người Kenyan 1 ăn 10, thứ năm là Joyce Carol Oates, tác giả người Hoa Kỳ với tỉ lệ 1 ăn 16. Đó là top-five trong danh sách dự đoán. Bob Dylan, nhạc sĩ Pop của Hoa Kỳ, chỉ có thứ hạng khá khiêm nhường với tỉ lệ 1 ăn 50.

Và kết quả khá ngạc nhiên cho tất cả mọi người: Một nhạc sĩ đoạt giải Nobel văn chương. Ngày 13 tháng 10, Thư ký Thường Trực của Hội Đồng Tuyển Chọn - Sara Danius – tuyên bố Bob Dylan chính thức đoạt giải Nobel Văn Chương năm 2016. Trong bản văn tuyên bố giải thưởng, Bob Dylan được xưng tụng là một nhạc sĩ “đã sáng tạo được cách diễn đạt thi ca tân kỳ trong truyền thống ca khúc vĩ đại của Hoa Kỳ,” và “ông là một nhà thơ vĩ đại trong truyền thống văn chương Anh ngữ.”

NhãLan: Bob Dylan là nghệ danh của Robert Allen Zimmerman, người Hoa Kỳ gốc Do Thái. Ông là một nghệ sĩ đa tài, vừa là nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên, và còn là họa sĩ, nhà văn, nhà biên soạn kịch nữa. Trong hơn 5 thập niên, ông là một chân dung nghệ sĩ có ảnh hưởng tới nền âm nhạc và văn học thế giới. Ảnh hưởng lớn nhất của ông là những ca khúc ông viết trong thập niên 60 với chủ đích khởi xướng và dẫn đường cho những phong trào tranh đấu cho nhân quyền, cho công bằng xã hội và chống đối chiến tranh. Nổi bật là hai ca khúc “Blowin’ in the Wind” - Cuốn Đi Theo Gió - và “The Times They Are A-Changin’” - Thời Đạí Đang Đổi Thay – là hai bài thánh ca của các phong trào đòi hỏi nhân quyền và chống chiến tranh trong thập niên 60 và 70 ở Hoa Kỳ.

Những ca khúc của Bob Dylan luôn luôn được xếp hạng cao trong các bảng xếp hạng các bài ca được nhiều người ưa chuông. Đặc biệt là ca khúc “Like a Rolling Stone” - Như Một Hòn Đá Lăn - đã từng được Tạp Chí Rolling Stone xếp vào hạng Nhất, trong danh sách “500 ca khúc hay nhất của mọi thời.” Bob Dylan, với 55 năm sinh hoạt nghệ thuật không ngưng nghỉ, với hàng trăm ca khúc ông sáng tác, với hàng trăm đĩa nhạc phát hành và lưu diễn trên khắp thế giới, danh tiếng và tầm ảnh hưởng của Bob Dylan thật là rộng lớn. Ông đã từng đoạt được giải Pulitzer Hoa Kỳ năm 2008. Ông đã được Tổng Thống Mỹ Barack Obama trao Huân chương Tự do năm 2012. Và bây giờ, được trao tặng Giải Nobel Văn Chương 2016.

NhãLan: Thưa quý vị, Chương trình Tản Mạn Văn Học hôm nay, chúng tôi có mời một vị khách quý là nhà báo Đinh Sinh Long, mà trước đây, chúng tôi đã có dịp nói chuyện, trong chương trình này, về đề tài báo chí của Không Quân. Thưa quý vị, nhà báo Đinh Sinh Long cũng còn là một nhạc sĩ, một nghệ sĩ tài tử, ông là “fan” của Bob Dylan, và ông đã từng viết lời Việt cho bài ca rất nổi tiếng “Blowin’ in The Wind” -Gió Cuốn Đi Rồi- của Bob Dylan. Hôm nay, chúng tôi mời ông tham dự buổi tản mạn này, để cùng với chúng tôi, Nhã Lan và nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, nói về Bob Dylan, người nhạc sĩ vừa được trao tặng giải thưởng Nobel Văn Chương năm 2016.

1 - NguyễnMạnhTrinh: Thưa anh, khi anh hay tin nhạc sĩ Bob Dylan đoạt giải Nobel văn chương năm nay, anh có thấy bất ngờ không?

ĐinhSinhLong: Vâng, đương nhiên là bất ngờ rồi. Giải thưỏng về văn chương mà lại trao cho một ông nhạc sĩ thì đúng là điều gây ngạc nhiên. Và vì ngạc nhiên, nên tôi mới tìm đọc một số bài viết về Bob Dylan. Tôi mới biết là có nhiều phê phán và tranh luận trong giới văn học về giải Nobel văn chương năm nay. Tôi cũng có đọc cả những bài tiếng Việt như bài viết về Bob Dylan của anh Nguyễn Mạnh Trinh đây, rồi cũng đọc bài của Hoài Nam trên trang mạng Tư Vấn & Bạn Hữu, và đọc cả bài của Trần Doãn Nho trên NgườiVietonline, đặc biệt là bài thơ rất hay, do Trần Ngọc Cư dịch từ lời ca “Blowing in the Wind” thành bài thơ “Thoảng Bay Theo Gió,” đăng trên trang mạng Khoahocnet. Thât ra, trước đây tôi chỉ biết Bob Dylan là tác giả của "Blowing In The Wind", là bài ca mà tôi rất thích, thích từ thời còn trẻ, và rồi sau này, tôi đã có dịp dịch bài này sang lời Việt để hát. Lời bài ca tiếng Anh của Bob Dylan rất hay, rất cảm động. Đó là một bài thơ, khi hát lên, như ta đang hát những lời của một bài thơ vậy.

2 - NhãLan: Nói đến Bob Dylan là chúng ta nghĩ ngay đến “Blowin’ in The Wind” rồi. Đây là một ca khúc rất nổi tiếng và từng được coi là thánh ca của phong trào đấu tranh cho nhân quyền và chống chiến tranh của thanh niên Hoa Kỳ trong thập niên 60, 70. Sau đây, Nhã Lan xin giới thiệu bài ca này cùng quý vị. Bài này do chính tác giả Bob Dylan trình diễn lần đầu, vào năm 1963. Xin mời quý vị cùng nghe:


Video clip 1: Blowing In The Wind (Live On TV, March 1963)

3 - NguyễnMạnhTrinh: Đây là một ca khúc rất hay và rất nổi tiếng của Bob Dylan. Theo anh, yếu tố nào làm cho ca khúc này hay và nổi tiếng?

ĐinhSinhLong: - Theo tôi nghĩ, một cách đơn giản, một ca khúc được coi là “hay”, nếu nó rung động được lòng người. Theo Bob Dylan, có lần ông phát biểu là, đối với một ca khúc phổ thông, có lời và nhạc, thì lời ca là yếu tố quan trọng nhất. Áp dụng vào ca khúc “Blowing In the Wind” này, như chúng ta vừa mới nghe, ta thấy rằng: Lời ca có vần điệu như một bài thơ, gồm ba đoạn là những câu hỏi về thân phận con người, về ý nghĩa cuộc đờì, về nhân quyền và về chiến tranh. Điệp khúc là: The answer, my friend, is blowing in the wind – Câu trả lời, bạn ơi, đã bay theo gió rồi”. Bài ca này gửi cho ta một thông điệp, thôi thúc ta phải suy nghĩ, phải có thái độ, cho những vấn nạn đã nêu lên trong các câu hỏi. Còn về giai điệu, đây là một điểm đăc biệt của Bop Dylan, ông dùng một giai điệu giản dị, pha trộn âm giai trưởng và thứ theo một vòng luân lưu rất dễ nghe. Bởi vậy, "Blowin’ in the Wind" là một ca khúc hay, dễ phổ biến và rất nổi tiếng. Nổi tiếng vì nó gắn liền với phong trào đấu tranh cho nhân quyền và phản chiến ở Hoa Kỳ thời đó.

4 - NhãLan: Như chúng ta đã biết, bài ca này từng được coi là thánh ca của phong trào tranh đấu cho nhân quyền và chống chiến tranh ở Hoa Kỳ. Chính Bob Dylan và danh ca Joan Baez, người tình của ông, cặp nghệ sĩ tài danh này đã song ca bài Blowin’ in the Wind trong cuộc diễn hành lịch sử “March on Washington” năm 1963, mà Mục sư Martin Luther King Jr. từng đọc bài diễn văn “I have a Dream” nổi tiếng khắp thế giới. Và sau này, nó còn là bài ca chính thức của phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ. Vậy Nhã Lan xin hỏi, tại sao bài này lại được phổ biến trong giới quân nhân Mỹ tham chiến ở VN dạo đó?

ĐSLong: Vâng, thì có thể hiểu, có thể cắt nghĩa, đó là một đặc điểm của chế độ tự do. Hoa Kỳ, và tôi nghĩ, một phần nào đó, của chế độ “tương đối tự do” ở Miền Nam VN trước đây nữa. Có tự do trong nghệ thuật, có tự do sáng tác. Do đó, bài ca này vẫn được phổ biến rộng rãi. Thực ra đây không phải là bài ca “phản chiến”, nội dung của nó là nói về nhân quyền và khơi dậy lòng yêu thương hòa bình. Phong trào phản chiến thời đó chọn nó làm bài ca chính của phong trào nên nó mới bị gán cho cái ý phản chiến mà thôi. Tôi xin nói thêm một ý này: Dưới chế dộ CS Miền Bắc, các ca khúc thời chiến tranh thì phải hô hào chiến tranh, xông lên, bắn giết. Còn ca khúc ở Miền nam thì nói đến tình yêu và tâm tư con người trong cuộc chiến. Nếu có những lời ca than vãn về nỗi đau thương hay suy tư về cuộc chiến, thì không hẳn bị coi là phản chiến. Vì vậy Miền Nam mới có Trịnh Công Sơn, được tự do sáng tác, được tự do phổ biến. Trường hợp bài ca này của Bob Dylan cũng vậy. Các đài phát thanh của quân đội Hoa Kỳ và các club nhac trong căn cứ, vẫn cho hát “Blowin’ in the Wind”, và nhiều bài như "Five hundred miles," "Country Road," làm lòng người lính trĩu nặng nỗi buồn nhớ nhà. Dù vậy, vẫn không sao. Đó là đặc điểm của nền văn nghệ tư do. Trường hợp cá nhân tôi, là một quân nhân tình nguyện vào quân ngũ, từng phục vụ nhiều năm ở đơn vị tác chiến, khi nghe được bài này, tôi nhớ là từ một đĩa hát do bộ ba Peter, Paul và Mary trình bày, tôi rất xúc động, nhưng nó chẳng hề làm sờn lòng chiến đấu của mình.

Một điều nghe có vẻ nghịch lý là: lòng mình, trái tim mình, thì xúc động với lý tưởng hòa bình, chán ghét chiến tranh, trong khi đầu mình, trí mình, thì bảo phải chiến đấu, phải cầm súng, phải tự vệ. Chúng ta chiến đấu là để bảo vệ một xã hội có tự do, có nhân quyền cho Miền Nam. Bài hát này nói về nhân quyền, nó thức tỉnh con người về giá trị của nhân quyền, của hòa bình. Cho nên nó làm mình xúc động, nó lôi cuốn được thế hệ trẻ có lý tưởng

5 - NhãLan: Anh vừa nói đến đĩa hát của bộ ba Peter, Paul và Mary. Đúng vậy, họ đàn hát bài này rất truyền cảm, hòa âm rất hay, nghe rất xúc động. Nhã Lan đề nghị chúng mình nên tạm ngưng nói chuyện một lát, để mời quý vị thưởng thức, một lần nữa, bài ca “Blowin’ in the Wind” của Bob Dylan, do bộ ba Peter, Paul và Mary trình diễn sau đây:


Video clip 2: Peter, Paul and Mary - Blowing in the Wind

6 - NMTrinh: Bob Dylan còn là thi sĩ, là họa sĩ, là nhà văn. Những lời ca của ông cũng là những bài thơ, nó chuyên trở những ý tưởng, nó là những thông điệp nói lên tâm tư của con người cùng thế hệ ông, cho nên ông từng được tuyên dương là “Tiếng nói của thế hệ mình,” “The voice of his generation.” Anh nghĩ thế nào? Anh thích nhất ca khúc nào của Bob Dylan?

ĐSLong: Vâng, thực ra thì Bob Dylan không nhận cái danh hiệu là “tiếng nói của thế hệ”. Trong một cuộc phỏng vấn, ông nói ông chỉ đơn giản là một “nhạc sĩ” mà thôi. Ông cũng không bao giờ giải thích ý nghĩa của những bài ca ông viết. Ông để mỗi người tự cảm nhận lấy theo ý riêng của họ. Còn bài ca nào của Bob Dylan mà tôi thích nhất? thì thực ra, tôi chỉ thích hát một bài của ông ấy, là bài “Blowin’ in the wind.“ Một bài đó thôi. Những bài khác thì hoặc tôi không được biết đến, hoặc biết mà không thích hát. Đơn giản là vì những bài đó phần lớn thuộc loại nhạc Rock, ồn ào, không hợp với tai của người Việt ở thế hệ tôi. Tuy nhiên, chỉ nói về lời ca, thì phải công nhận rằng những lời ca Bob Dylan viết, đều là những bài thơ hay, hay cả ý lẫn chữ. Chẳng hạn, như bài “Like a Rolling Stone” - “Như một hòn đá lăn”, là bài được xếp hạng Nhất trong “500 bài ca hay của mọi thời”. Tuy rằng nó nổi tiếng với người Mỹ, nhưng không hợp với người Việt, nói chung.

7 - NMTrinh: Có người nói Trịnh Công Sơn chịu phần nào ảnh hưởng lời ca của Bob Dylan, chằng hạn Bob Dylan có “Blowing in the wind” thì Trịnh Công Sơn có “Để gió cuốn đi”, Bob Dylan có “Like a rolling stone” thì Trịnh Công Sơn có “Như một hòn bi xanh.” Anh nghĩ thế nào về sự so sánh này?

ĐSLong: Tôi nghĩ so sánh như vậy là không đúng. Trịnh Công Sơn viết “Để Gió Cuốn Đi” với câu hỏi mở đầu: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Và ông trả lời: “Để gió cuốn đi” với ngụ ý là: để gió mang đi gieo rắc tấm lòng đó, tình thương đó vào đời, cho mọi người. Còn Bob Dylan thì chuyên viết những ca khúc được gọi là “phản kháng”, ông nêu lên những câu hỏi, những điều phi lý của cuộc đời, bất công của xã hội, như trong bài “Blowing in the wind”, tôi tạm dịch để dễ hát theo nốt nhạc, là “Gió Cuốn Đi Rồi”, với ngụ ý là: những câu trả lời cho các vấn nạn đó đã không tìm ra được, vì nó đã bị gió cuốn đi vào chốn mù khơi rồi. Vậy thì “Gió cuốn đi rồi” khác hẳn với “Để gió cuốn đi” của TCS. Cũng vậy, với bài “Như một hòn bi xanh” TCS so sánh “Như một hòn bi xanh, trái đất này quay tròn. Căn nhà ta nằm nhỏ, trong một lòng quê hương” để rồi kêu gọi: “Này em trong mỗi con tim, nhớ mang quê hương của mình.” Tôi chợt nghĩ , không biết có phải TCS viết bài này trong một “Trại sáng tác do nhà nước tổ chức” để kêu gọi những người Việt Hải Ngoại không? Ý “yêu quê hương” này nghe rất kêu, kiểu thơ phú cường điệu nặng mùi tuyên truyền: “Quê hương là trùm khế ngọt… Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người!” của một ông thi sĩ nào đó. Còn Bob Dylan viết “Like a Rolling Stone - Như một hòn đá lăn,” là ví von số phận đổi thay của một phụ nữ, từ chỗ đỉnh cao, có tất cả, tiền tài, danh vọng, rồi một ngày cô bị rơi xuống đáy tận cùng, mất tất cả. Đoạn điệp khúc như thế này: How does it feel? - Cảm giác thế nào nhỉ. To be on your own- Khi phải sống một mình. With no direction home- Khi không biết đâu là nhà. Like a complete unknown- Như một kẻ hoàn toàn vô danh. Like a rolling stone- Như một hòn đá lăn. Tôi dẫn chứng dài dòng như vậy để thấy rằng “như một hòn bi xanh” vui tươi của Trịnh Công Sơn hoàn toàn khác ý nghĩa với “Như một hòn đá lăn” bi thảm của Bob Dylan. Tuy nhiên, nếu có điều so sánh nào đó giưã hai nhạc sĩ này, thì có thể nêu lên ở điểm này, chỉ ở điểm này thôi: Đó là lời ca của họ đều là những bài thơ, mang ngôn ngữ và âm điệu của thơ. Vậy thôi.

8 – NMTrinh: Anh nói đến chất thơ trong ca khúc. Ngoài Trịnh Công Sơn như anh kể, còn có nhạc sĩ nào khác không?

ĐSLong: Nhạc sĩ có lời ca thơ, tự mình viết cả nhạc lẫn lời, mà lời là thơ, theo tôi, thì có Nguyễn Đình Toàn. Nguyễn Đình Toàn ở Miền Nam, không phải là Nguyễn Đình Toàn ca sĩ ở ngoài Bắc, thường hát nhạc TCS thấy trên Youtube, mà nhiều người lẫn lộn vì trùng tên. Nguyễn Đình Toàn của Miền Nam là văn sĩ, tác giả của “Áo Mơ Phai” đã được trao tặng giải thưởng Văn Chương toàn quốc của VNCH trước 75. Ông cũng là thi sĩ và nhạc sĩ, đa tài giống như Bob Dylan. Toàn bộ những ca khúc ông viết, trên 100 bài, đều là thơ. Ông viết lời thơ về tình yêu, về thân phận, về đất nước. Nhiều bài nổi tiếng đã được phổ biến rộng rãi trên Youtube với tiếng hát của Khánh Ly, Lệ Thu, Duy Trác, Tuấn Ngọc và nhiều giọng ca khác nữa. Bob Dylan quan niệm lời ca quan trọng hơn giai điệu. Điều này tôi thấy là đúng. Rất đúng trong trường hợp nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn. Chính phần lời ca, lời thơ của ông đã chinh phục người nghe hơn là phần giai điệu của ca khúc. Như “Nước Mắt Cho Sài Gòn,” “Hãy Thắp Cho Nhau Một Ngọn Đèn,” “Căn Nhà Xưa,” “Một Cánh Hoa Rơi,” “Đường Đưa Bước Em Đi,” “Mưa Khuya,” “Tình Khúc Thứ Nhất,” “Còn Tiếng Hát Gửi Người” v.v.. Hát những bài của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn là ta “hát thơ”, “ca thơ”, nói theo chữ của Hoàng Ngọc Tuấn, cũng là một nhạc sĩ kiêm thi sĩ, hiện là chủ biên của trang Tiền Vệ, bên Úc Châu. Cũng vậy, giải Nobel văn chương năm nay trao cho Bob Dylan chính là vì cái giá trị văn chương của những lời ca thơ trong các ca khúc của ông, đúng như những lời tuyên dương trong bản tuyên bố giải thường: Bob Dylan là một nhạc sĩ “có những sáng tác diễn tả tân kỳ trong truyền thống ca khúc vĩ đại của Hoa Kỳ,” và “ông là một nhà thơ vĩ đại của nền văn học Anh ngữ.”

9 - NhãLan: Nhã Lan được biết là anh có viết lời ca tiếng Việt cho bài “Blowin’ in the Wind”. Trước khi mời quý vị thưởng thức bài ca này với lời tiếng Việt của anh, xin anh nói đôi điều về việc anh viết lời Việt cho bài ca này như thế nào?

ĐSLong: Vâng, việc này cũng có một vài sự tích. Tôi xin phép sẽ dài dòng một chút để gợi lại một vài kỷ niệm riêng. Bài Blowin’ in the Wind này tôi nghe lần đầu, từ hồi còn chiến tranh, khoảng đầu năm 1968, khi đó tôi đang theo học lớp Báo Chí ở Hoa Kỳ. Phong trào phản chiến ở HK lúc đó đang bùng lên rất mạnh. Bài Blowin’ in The Wind rất phổ biến. Tại sao tôi thích bài này, thì tôi đã trình bày lúc trước rồi. Rồi sau 75, sau khi tôi bị tù Cộng sản ở ngoài Bắc được thả về Sài Gòn, tôi gặp lại một nhạc sĩ trẻ, Nguyễn Tiến Chỉnh, cũng là một phi công đi tù CS về, anh bạn này chơi guitar bass trong ban nhạc ở Tour d’ Argent cùng nhạc sĩ Phạm Trong Cầu và nhạc sĩ Nhật Bằng. Nguyễn Tiến Chỉnh cho tôi bản in của ca khúc này, và chúng tôi tập guitar với nhau. Lúc đó, trong chỗ riêng tư, chúng tôi rất thích hát lại những ca khúc của Mỹ như Imagine, Greenfields, Five Hundred Miles, House of the Rising Sun, The End of the World, If You Go Away v.v. và nhất là bài Blowin’ in the Wind. Không ngờ, và cũng là điều oái oăm: Bài hát một thời là “thánh ca” của phong trào phản chiến, thì nay, đối với chúng tôi, là những “nạn nhân cộng sản”, bây giờ sống trong một xã hội đang băng hoại, sống dưới một chế độ độc tài và trà đạp nhân quyền, thì bài ca này lại càng thấm thía và đánh động tâm can chúng tôi vô cùng. Và lúc đó, tôi rất muốn dịch nó sang lời Việt. Nhưng dịch bài này không dễ. Phải tìm đúng chữ, vừa đúng ý lời ca gốc, lại vừa dễ hát cho hợp với nốt nhạc, và còn phải hợp với lối nói tự nhiên của người Việt mình nữa. Vì khó, nên tôi bỏ dở. Mãi đến khi sang đến đất Mỹ này, tình cờ một hôm cao hứng, tôi đã dịch xong lời Việt cho bài này, đó là vào năm 1994. Tuy chưa được hoàn hảo, nhưng tôi cũng hài lòng. Và hôm nay, vì nhận lời mời của cô Nhã Lan và anh Nguyễn Mạnh Trinh đây, nên chúng tôi cố gắng thực hiện video clip cho bài ca tiếng Việt này. Dù là với tiếng hát mộc mạc và già nua cùa đôi vợ chồng đã ở tuổi ngoài 70, nhưng đây là “tấm lòng văn nghệ” của chúng tôi đóng góp cùng các bằng hữu.

10 – NhãLan: Và bây giờ, xin mời quý vị, chúng ta cùng nghe “Gió Cuốn Đi Rồi” do Ngọc Diệp và Đinh Sinh Long viết lời Việt và đàn hát sau đây


Video clip 3: Gió Cuốn Đi Rồi (Blowing In The Wind- Bob Dylan)
Đinh Sinh Long & Ngọc Diệp

11 – NhãLan: Cám ơn anh chị Đinh Sinh Long và Ngọc Diệp đã đóng góp cho chương trình một video ca nhạc nghệ thuật rất có ý nghĩa. Lời Việt anh đăt rất khéo, rất sát với ý của lời ca gốc, mà vần điệu cũng giống như một thơ vậy. Thưa anh, anh dịch Blowin’ in the Wind là “Gió Cuốn Đi Rồi”. Nhã Lan thấy trên Facebook có người dịch là “Để Gió Cuốn Đi,” anh nghĩ thế nào?

ĐSLong: Cô Nhã Lan nêu lên câu hỏi này rất hay. Vì câu “The answer, my friend, is blowing in the wind” của Bob Dylan lâu nay vẫn còn gây tranh luận đối với chính người Mỹ. Như ta đã biết, Bob Dylan không bao giờ chịu cắt nghĩa những lời ca ông viết. Ông để mọi người tự do hiểu lời ca đó theo quan điểm riêng của họ. Cho nên mới mạnh ai nấy hiểu, và tha hồ giải thích, tranh cãi. Có người giải thích rằng: Câu trả lời không hề TAN BIẾN MẤT trong gió đâu. Nó ở trong gió, nó ở quanh ta, nếu ta biết lắng nghe ta sẽ nghe thấy đươc. Trần Ngọc Cư đã dịch sang thơ thế này: “Lời đáp bạn ơi thoảng bay theo gió” nghe cũng hay lắm. Tôi dịch là “Ai ơi, câu trả lời, theo gió gió cuốn đi rồi. Ai ơi, gió cuốn trôi trong mù khơi” là cũng dịch thoat ý của lời gốc: “The answer, my friend, is blowin’ in the wind. The answer is blowin’ in the wind”. Còn ai đó dịch là “ĐỂ gió cuốn đi”, như tên của một ca khúc quen thuộc của Trịnh Công Sơn, thì tôi nghĩ, chữ ĐỂ đã làm sai lạc hoàn toàn ý của câu này và của cả bài ca này rồi. Mà thưc ra, theo tôi, cái ý chính, thông điệp chính, của bài này, là nằm ở những câu hỏi. Những câu hỏi đó mới là quan trọng: “Và còn bao đêm tăm tối, tiếng súng vang, vang khung trời, để một mai thôi chinh chiến, thôi đạn rơi? Và cần bao đôi tai nữa, hỡi những ai đang cần, để nghe tiếng khóc than trong nhân gian? v.v.. .. Các câu hỏi đó thúc giục người ta phải suy tư, phải thức tỉnh, phải có thái độ về các vấn đề nhân quyền và chiến tranh, chứ không nhất thiết là phải có được câu trả lời chỉ đơn giản bằng ngôn từ. Vâng, tôi nghĩ như vậy.

12 – NMTrinh: Bây giờ, xin trở lại với Giải Nobel. Xin hỏi anh câu chót, có liên quan đến cuộc tranh cãi về giải thưởng Nobel văn chương năm nay. Như chúng ta đã biết, giải Nobel văn chương năm nay đã chọn Bob Dylan, là một nhạc sĩ, chứ không chọn các nhà văn. Điều này dẫn đến nhiều phê bình và tranh cãi trong giới văn học, bên chỉ trích, bên bênh vực. Theo anh, anh nghĩ thế nào về chuyện này?

ĐSLong: Vâng, chuyện tranh cãi đó thì rất dài, bên bênh, bên chống, hai bên đều có những lý lẽ “có lý” theo lập trường của họ. Lên internet tìm đọc, hoặc qua bài viết trên tạp chí văn học của chính anh Nguyễn Mạnh Trinh đây, thì sẽ có đầy đủ chi tiết về vấn đề này. Nhiều lắm, nên tôi xin miễn nhắc lại. Còn anh hỏi tôi nghĩ thế nào, thì tôi xin bày tỏ ý riêng của tôi như thế này: Với một sự nghiệp văn hóa suốt một đời và rất to lớn của Bob Dylan, thì ông là một tài năng lớn, không thua kém bất cứ nhà thơ nhà văn nổi tiếng nào khác, cho nên, nếu ông được trao tặng giải Nobel thì cũng là điều rất xứng đáng. Có lẽ điều rắc rối làm người ta tranh cãi, là do cái tên giải “Nobel Văn Chương”. Nếu tên đó mà đổi thành “Nobel Văn Học Nghệ Thuật” như có người đã đề nghị, thì nó sẽ bao gồm mọi hình thức nghệ thuật của Văn học, chứ không phải chỉ có văn chương mà thôi. Và một điều nữa có thấy được qua sự kiện này là: Giải Nobel được chấm là căn cứ trên toàn bộ sự nghiệp của cả một đời người, chứ không phài chỉ căn cứ vào một vài tác phẩm đặc biệt. Và, việc Bop Dyland đựơc trao tặng giải Nobel văn chương năm nay, đã cho chúng ta thấy rằng: thi ca và âm nhạc cũng quan trọng không kém gì văn chương.

NhãLan: Xin cám ơn anh Đinh Sinh Long. Thưa quý vị, câu trả lời của nhà báo và nhạc sĩ Đinh Sinh Long vừa rồi, chính là lời kết cho chương trình Tản Mạn Văn Học về đề tài “Bob Dylan với ca khúc “Blowing in the Wind” và giải Nobel văn chương 2016.” Nhã Lan và nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh xin thân ái kính chào tạm biệt, và xin hẹn gặp lại vào kỳ tới.



Monday, November 21, 2016

Tiếng Hát Nhiều Gắn Bó Với Tâm Hồn Việt Nam

Lily Doiron

(Đào Thị Huệ)

Tên cô là Lily Doiron, người con gái Canada, nhưng có một tâm hồn rất Việt Nam. Cô nhận là mình có hai quê hương, Canada và Việt Nam, nhưng cô gắn bó với Việt Nam nhiều hơn, như lời tâm sự của cô khi hát bài Rước Tình Về Với Quê Hương, "Hát bài đó em rơi nước mắt luôn! Bài đó nó rất là hợp với em. Em nhớ có một chỗ là... Anh hãy chờ em cởi giày đi chân đất, cho thân thể này gắn chặt với quê hương..."

Mời cả nhà click vào video dưới đây để thưởng thức:


Giới Thiệu: Trường Kỳ



Giai Điệu Quê Hương

Hát: Lily Doiron



Trăng Sông Thu

Thơ: Thân Văn Lào

Nhạc: Nguyễn Đức

Hát: Lily Doiron



Huế Buồn

Nhạc: Lê Dinh

Hát: Lily Doiron



Bảy Ngàn Đêm Góp Lại

Nhạc: Trầm Tử Thiêng

Hát: Lily Doiron



Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy

Nhạc: Trầm Tử Thiêng

Hát: Lily Doiron



Tình Hoài Hương

Nhạc: Phạm Duy

Hát: Lily Doiron




Xuân Này Con Không Về

Nhạc: Nhật Ngân

Hát: Lily Doiron




Ngậm Ngùi

Thơ: Huy Cận

Nhạc: Phạm Duy

Hát: Lily Doiron




Lòng Mẹ

Nhạc: Y Vân

Hát: Lily Doiron



Wednesday, November 16, 2016

Xin Đừng Gọi Chúng Tôi Là "Tù Cải Tạo"

Lời của Ban Ban Tập: 

Xin giới thiệu quan niệm của tác giả Người Rừng Nguyễn Thành Trung về "Tù Cải Tạo."


THƯ NGỎ

Kính gởi qúy chiến hữu Quân Lực Việt Nam Công Hoà, qúy ông bà trong giới truyền thông, nhà báo, văn nhân, văn sỹ và toàn thể công dân nước Việt,

Kính thưa qúy vị, xin đừng kể, đừng viết, đừng gọi chúng tôi là những "Tù Cải Tạo." 

Vâng, từ “Cải Tạo” là danh xưng cho những tù hình sự, những kẻ cướp của, giết người, những thành phần xấu trong xã hội. Chúng tôi là Quân, Cán, Chính VNCH, những thành phần cầm súng chiến đấu bảo vệ mảnh đất còn lại của Tổ Tiên ở Miền Nam. Chỉ vì chúng tôi không đứng chung hàng ngũ với Việt Cộng, nên khi bị bức tử phải buông súng đầu hàng, bọn gian manh, lừa đảo Việt Cộng nhốt tù chúng tôi để chúng được rảnh tay cướp bóc tài sản của dân chúng Miền Nam, để vinh thân phì gia trong hàng ngũ của chúng, và biến cả nước thành “vô sản”...

Hãy gọi chúng tôi là những “Tù Chính Trị" hay "Tù Cộng Sản.” Danh xưng “Cải Tạo” gán cho chúng tôi là một sự “vơ đũa cả nắm.”

Vài chục năm nữa khi thế hệ cháu chắt chít của chúng tôi tìm đọc các tài liệu mà qúy vị để lại sau này, khi thấy nói về chiến tranh Việt Nam trong những năm 54-75, chúng có thể sẽ hiểu rằng: nhân sự cùa VNCH bị giam cầm là những "Tù Cải Tạo”.... vô hình chung chúng tôi trở thành những tù hình sự hay sao?

Khi chúng tôi không còn trên qủa địa cầu này, không ai bênh vực, bào chữa cho thì các thế hệ cháu chắt chít ấy chúng sẽ chỉ hiểu rằng chúng tôi cũng như những tù hình sự, mà không hiểu rằng Quân, Cán, Chính VNCH đã bị Việt Cộng trả thù, giam cầm. Mục đích của chúng là để dễ dàng rảnh tay cướp bóc tài sản của người dân Miền Nam và đồng hóa sự nghèo khổ với người dân Miền Bắc.

Thành thật cám ơn qúy vị
 Xin đa tạ, đa tạ.

Người Rừng Nguyễn Thành Trung

Tuesday, November 15, 2016

Khai Mạc Đúng Giờ

Chúng tôi, một nhóm bạn, những ngày cuối tuần thường rủ nhau ra quán café ngồi uống café và tán ngẫu. Chúng tôi hẹn nhau 10 giờ, tất cả đều đến đúng giờ, chỉ riêng một anh đến trễ nửa tiếng. Trong nhóm có một anh cũng hơi bực không nhịn được nên nói: Giờ giấc gì mà kỳ cục vậy?  Hẹn 10 giờ mà giờ này mới tời, tụi này sắp tan hàng rồi đó có biết không? Anh bạn đến trễ thản nhiên trả lời không cần suy nghĩ:  "Ôi quan cần dân trễ hơi đâu mà lo, muốn ngồi thêm thì cho tôi ly café đen đậm đi."  Cả nhóm đều cười xòa mà quên đi sự bực bội. An Nam ta có cái lạ: cái gì cũng cười, khen cũng cười mà chê cũng cười, hì một tiếng thì mọi việc hết nghiêm trang.

Cũng một cái đám cưới nọ, ngồi chung bàn 10 người, có một cặp vợ chồng đến trễ hơn 2 tiếng đồng hồ, vừa ngồi xuống thì có một anh trong bàn hỏi:  "Làm gì mà đi trễ vậy bạn?"  Cặp vợ chồng đi trễ trả lời ngay: "Mình đi trễ để chứng tỏ mình là người Việt Nam."  À té ra anh này học thuộc lòng câu:  "Không ăn đậu không phải người Mễ, Không đi trễ không phải người Việt Nam."  Anh còn thên một câu:  "Quý vị thấy không?  Tiệc chưa khai mạc mà, tôi đi trễ như vày là vừa?"

Hai câu chuyện trên mà tôi được chứng kiến cũng như hằng ngàn câu chuyên tương tự về vấn đề đi trễ cho những buổi tiệc tùng do bà con người Việt mình tổ chức.  Cũng có những bài viết thật có giá trị đề nghị như thế này, thế nọ nhưng rồi cũng không đi đến đâu, thậm chí trong thiệp mời cũng có ghi hai chữ nhắc khéo, lưu ý:  "Chúng tôi khai mạc đúng giờ."

Hầu hết người Việt chúng ta sinh sống ở nước ngoài, đi làm hảng xưởng, ít khi đi trễ vì nếu đi làm trễ sẽ bị cảnh cáo hay đuổi việc, những thành phần này khi tham gia tiệc tùng do người Việt tổ chức thì lại đi trễ. Như vậy là sao?  Khó hiểu quá!.

Có lẽ đây là văn hóa của người Việt Nam.  "Văn hóa đi trễ,"  khó có thể thay đổi. Ngày Hội Ngộ Sư Đoàn 6 Không Quân tới đây (7-7-2017) chúng tôi thử làm cuộc Cách mạng Khai mạc đúng giờ, mong bà con hưởng ứng.

KQ Lê Văn Sáu

Wednesday, November 9, 2016

Thông Báo Đóng Góp Văn Nghệ

Kính thưa quý Niên Trưởng và quý Chiến Hữu SĐ6KQ,

Để phần văn nghệ trong Hội Ngộ SĐ6KQ được phong phú và nói lên tính đơn vị, Ban Tổ Chức (BTC) đề nghị mỗi Không Đoàn (KĐ) đóng góp một tiết mục.

Đương nhiên, các KQ có năng khiếu văn nghệ của các phòng sở trực thuộc, sẽ ghi danh đóng góp phần văn nghệ đại diện cho KĐ của mình.

Nếu mỗi KĐ (trong 6 KĐ) đóng góp một tiết mục, thời gian sẽ chiếm khoảng trên 30 phút (5' x 6). Các tiết mục bao gồm đơn ca, hợp ca, thơ phú, nhạc cảnh, ca cổ, v.v..., miễn sao nội dung xoáy vào chủ đề của Hội Ngộ là Khung Trời Cũ, Núi Sông Xưa.

Để giúp BTC dễ dàng sắp xếp chương trình và để không bị trùng lặp, đề nghị mỗi KĐ gởi các tiết mục đóng góp về BTC trước ngày 30 tháng 5 năm 2017.

Ngoài ra, để phần văn nghệ giúp vui trong đêm Hội Ngộ được trật tự, êm thắm và vui tươi, BTC tha thiết mời gọi các ca sĩ cây nhà lá vườn thuộc SĐ6KQ ghi danh tham dự trước với tên bài ca để BTC tiện việc sắp xếp.

BTC sẽ chọn 10 Không Quân ghi danh đầu tiên với nội dung không bị trùng hợp.

Xin click vào link dưới đây để ghi danh đóng góp Văn Nghệ:

GHI DANH ĐÓNG GÓP VĂN NGHỆ

Không ghi tên trước mà muốn lên sân khấu trình diễn sẽ là một trở ngại cho BTC.

Rất mong được quý Niên trưởng trách nhiệm của 6 KĐ, (2 Chiến thuật, 2 Yểm cứ & 2 Kỷ thuật), cổ vũ các KQ có năng khiếu văn nghệ trong đơn vị của mình, tham gia đóng góp phần văn nghệ chủ đềvăn nghệ giúp vui nầy.

Trân trọng,

Thay mặt BTC
KQ Võ Ý

Monday, November 7, 2016

Người Con Gái Áo Trắng Điện Bàn

Thiên Phong Nguyễn Hồng Tuyền

- Tím Hai... Ðây Tím Một gọi...

- Tím Hai nghe Tím Một... 5/5.

- Tím Hai... Vòng bắn hỏa tiễn cuối cùng rồi vào hợp đoàn về cho sớm đi tắm biển... Chiều nay trời đẹp gió lặn mặt biển yên như tờ giấy... Chắc có nhiều người đẹp... Bikini... tắm lắm.

- Tím Hai... Roger.

- Tím Một... In... salvo (bắn hết) luôn hai bó hỏa tiễn 2,75 Tím Một... Out.

Tôi kéo cần lái vội qua tay phải để dể nhìn Tím Hai làm vòng bắn chót. Chiếc phi cơ T28 màu sơn trắng bạc có dấu hiệu đầu Cọp vàng đen của Phi Ðoàn 516 Khu Trục trên đuôi coi oai phong lẫm liệt vào thời năm 1962.

- Tím Hai... In...

Nhìn theo chiếc phi cơ Tím Hai vừa nhả hai ổ hỏa tiễn 14 trái 2.75 Inches phía trước đầy khói. Như rồng phun lửa từ miệng, cuộn khói sau đuôi con tàu làm một vòng hào quang do ánh nắng chiều rọi xuyên đám khói trắng vòng tròn phi cơ vừa bay lướt chui qua ... tuyệt đẹp. Những trái hỏa tiễn nổ trên đồi trong đám rừng cây xanh lá cách đồn quân bạn chừng 300 thước như những... cánh hoa đất... nở trắng đồi. Ánh nắng chiều vàng le lói xuyên qua giữa những... cánh hoa đất khói trắng vừa nở ... trong rừng xanh tạo nên một bức tranh đẹp mỹ miều khó tả được bằng bút mực cọ sơn của người trần thế.

- Tím Hai ... Out...

- Quá đẹp ... Tím Hai.

Người bạn đường không gian của tôi hôm nay là anh Thiếu úy Phạm quang Ðiềm có biệt hiệu là ông Hoàng Sihanook màu da hơi ngâm ngâm, tánh tình vui vẻ dễ mến, bay rất chì và chịu khó học hỏi. Anh là phi tuần viên số hai của Th/úy Ôn Văn Tài trưởng phòng hành quân phi đoàn Phi Hổ 516 khu trục. Trong lần biệt phái đi Ðà Nẵng 15 ngày kỳ nầy Phi đội Phi Hổ Tím thiếu Minh Chè Tím Hai đi phép, thành ra trưởng phòng hành quân Ôn Văn Tài đề cử Phạm Quang Ðiềm (Sihanouk) người phi tuần viên bay rất cừ và can đảm thay thế Minh Chè chỗ Tím Hai.

- Ðống Đa... Ðống Đa... Ðây Phi Hổ Tím...

- Phi Hổ Tím... Ðống Ða nghe bạn 5/5.

- Phi Hổ Tím... Phi vụ hoàn tất... Rời khỏi tần số, chúc bạn một đêm ngủ an lành.

- Ðống Ða ... Vạn lần cám ơn Phi Hổ. Kết quả oanh kích khi kiểm tra sẽ báo cáo sau.

- Tím Hai ... Ðổi qua tần số 118.5...

- Tím Hai... Roger.

- Ðây Một gọi...

- Hai ... nghe 5...

- Hai ơi!!... chắc kết quả ... chẳng có gì... chỉ được chừng ... hai tấn Tăm Xỉa Răng... Hi ... Hi... Hi... !!!! Tím Hai... Hợp đoàn giữ cao độ 1000 bộ hướng 90 ra bờ biển và lấy hướng bắc để về Ðà Nẵng...

- Tím Hai... Roger !!!

Trời chiều mùa hè, không mây gió, hợp đoàn xuống 300 bộ, bay theo dọc bờ biển êm ru, mở cocpick ra chừng một tấc, làm lòng người dễ chịu khoan khoái trong phòng lái như có máy lạnh làm mát những con tim đơn côi... của người phi công, trong không gian mênh mông.

- Hai ... Ðây Một gọi...

- Hai nghe... Một nói đi...

- Một sẽ xuống 100 bộ... Hai giữ cao độ 200 bộ... Trên ... Bay dọc theo bờ cát, ngang cửa biển Fai Fô và bờ biển Thanh Bình chắc có nhiều người đẹp phơi... rùa... bãi biển lắm nghen... trong mùa hè nầy.

- Hai... Roger... Hi... Hi...

Hợp đoàn qua khỏi Chu Lai, sắp đến cửa biển Fai Fô, vô tuyến đã rồ lên trong nón bay:

- Phi hổ Tím ... Ðây Panama ... Gọi... Phi Hổ Tím. ... Ðây Panama... Gọi...

- Phi Hổ Tím... Nghe Panama 5/5...

- Phi Hổ Tím ... Báo Cáo vị thế, xăng... và bom đạn...

- Vị thế... Trên Cửa biển Fai Fô... Cao độ 100 Bộ... Bơm Và Rockets đã thân tặng cho các Anh em Sanh Bắc Tử Nam hết rồi. Chỉ còn bốn Pot Ðại Liên 30... và 3 ngàn 200 viên đạn, xăng 1giờ 15... Over.

- Phi hổ Tím... Phi Vụ Khẩn cấp... Số Phi vụ #0041 ... Ðồn Ðịa Phương Quân... Ở Ðiện Bàn Bị VC

Tấn Công... Tần số FM 51,02... Danh hiệu... Bạch Ðằng...

- Phi Hổ Tím hiểu rỏ đang ở cách 5 phút cực Nam mục tiêu...

- Liên lạc thẳng với Bạch Ðằng... Sẽ có Phi Yến Quan sát và Khu Trục thay thế... Phi Hổ Tím trong vòng 30 phút.

- Xin Panama... lặp lại... Danh hiệu cho rõ ... Bạch Ðằng... Hay là... Bật Ðèn... đó Chú Tư Cầu ơi!!!

- Ông Quan Hai tàu bay Tím một ơi... Bạch Ðằng... Bạch Ðằng... chớ làm gì có ... Bật đèn... ban ngày đâu!!!

- Bạch Ðằng... Bạch Ðằng... Phi hổ Tím ... Roger... Out. Ha... Ha... Ha... Cám ơn Chú Tư Cầu.

Hợp đoàn chúng tôi cũng vừa bay đến trên không phận quận Ðiện Bàn nằm về phía đông nam độ ba mươi cây số đường chim bay cách Căn Cứ không quân Ðà Nẵng.

- Bạch Ðằng... Bạch Ðằng... Ðây Phi Hổ Tím ... Gọi..?

- Phi hổ Tím... Phi Hổ Tím... Bạch Ðằng... Nghe Bạn 5 trên 5.

- Bạn cho biết tình hình.

- Địch đang chận xe đò phía Ðông Bắc cách đồn chừng một ngàn thước, trên đường tỉnh lộ Bắc Nam.

Ðịch lùa hết hành khách xuống đám rừng chạy song song theo đường lộ làm bia đỡ đạn để tấn công đồn Ðiện Bàn. Chúng dùng đại liên 30, súng cối 60 ly pháo kích vào đồn... Xin Phi Hổ cho một bó Rockets vào đám rừng cây trước mặt đồn chạy dài theo hướng Nam lên Bắc bên kia con đường cho đến các xe đò đang bị chân lại...

- Phi Hổ... hiểu rõ... Thi hành ngay... Không thể dùng Rockets, hay bom nổ... Vì quá gần dân chúng..

-Tím Hai ... Ðây Một...

- Hai Nghe 5. Một sẽ... Working Gun (bóp cò vừa đạp cho mũi phi cơ qua lại)... theo bên kia đường ... trên đám rừng từ Nam lên Bắc... ngưng bắn cách 50 thước ... phía Nam của đòan xe đò...

- Hai ... Roger...

- Một ... In...

Chiếc T28 khu trục nhào từ 1000 bộ xuống... hai cây đại liên ... nổ dòn từ 600 bộ... cho đến 200 bộ theo nhịp điệu Working Gun, kéo trái.. nhìn rõ đoàn xe đò không người...

- Một ... Out...

- Hai... In...

Phi cơ của Tím Hai cũng theo vòng bắn... như Tím Một... kèm theo bên trái... kéo lên vào khỏang cao độ 200 bộ...

- Hai... out...

- Một ... In...

Vừa bóp cò hai đại liên vừa mới nổ... Tôi nhìn thấy một đoàn người từ trong đám rừng trước mặt... ùa lên đường lộ chạy về phiá đồn bạn... quần áo đủ thứ màu trắng xanh, xám.

- Tím Hai ngưng bắn ...

- Roger... Hai... Out...

Khi Tím Hai bay ngang trên đầu dân chúng tất cả nằm xuống, họ thấy máy bay không còn bắn nên yên tâm đứng dậy bồng bế nhau tiếp tục chạy về hướng đồn bạn.

- Bạch Ðằng ... Ðây Phi Hổ... Xin bạn đừng bắn... đoàn dân chúng đàn bà và trẻ em của đoàn xe đò đang hướng chạy về đồn bạn đó...

- Bạch Ðằng ... Hiểu rõ ... Phi Hổ Tím...

Tôi vội nhào phi cơ trở lại từ Bắc xuống Nam lắc cánh qua lại bay bên trái của đoàn người dân vô tội đáng thương hại đang bị kẹt giữa hai lằn đạn... Bạn và thù... Chiến tranh quá đau thương và tàn bạo. Tôi nhìn thấy trong đoàn người đang di chuyển sau cùng có hai người đang dìu một người mặc áo dài trắng, dáng đi khó khăn khấp khểnh, hai tay ôm vạt áo dài trước vào ngực đầy máu, vạt áo sau còn phất phơ theo gió. Hình như bị thương, lòng tôi se thắt lại. Tim tôi bóp nghẹn như đập thiếu nhịp, vì đâu dân Việt bị đau khổ triền miên. Nếu không có người Cộng Sản vô thần vô tổ quốc, đem chiến tranh từ phương Bắc vào Nam, gây cảnh tương tàn sầu thảm thì mảnh đất miền Nam chắc sống thanh bình trong muôn thuở. Chúng tôi bay vờn lên múc xuống như đang bảo vệ, trên đầu đoàn người vô tội đáng thương cố chạy hướng về đồn bạn để tìm sự sống trong cái chết. Khi dân chúng đã đến được vòng rào phòng thủ ngoài của đồn Ðịa Phương Quân an toàn, Phi Tuần trở lại mục tiêu bắn vài loạt đạn cầm chừng trên đám rừng bên phải đường tỉnh lộ chỗ các xe đò bị chận lại. Gần sáu giờ chiều, mặt trời mùa hè vẫn còn sáng ửng đỏ, có lẽ nhờ sự có mặt yểm trợ của Phi cơ khu trục trên vùng nên VC chưa dám tấn công đồn bạn.

- Ðây Phi Hổ Vàng Một ... Gọi Tím Một... Nghe không Trả lời... !!!!!

- Tím Một... Nghe... Vàng... 5/5... Bạn hãy liên lạc Bạch Ðằng ... Chắc không có gì... Chỉ vài chục... Delta Kilo (Du Kích) thôi.

- Bạch Ðằng... Ðây Phi Hổ Tím...

- Bạch Ðằng nghe ... Phi Hổ Tím... 5 trên 5.

- Ðã có Phi Hổ Vàng thay thế Phi Hổ Tím... Chúng tôi chúc bạn an lành và vững lòng tin để chiến đấu và bên bạn lúc nào cũng có chúng tôi. Xin bạn cho biết có ai bị thương nặng không trong số dân chúng đã về được tới đồn...

- Phi Hổ Tím ... Không có ai nặng lắm... có người con gái áo trắng bị thương đã được băng bó xong.

-Cám ơn bạn... Phi Hổ Tím rời khỏi tần số!!!!

- Panama... Panama... Ðây phi Hổ Tím...

- Panama... Nghe Phi Hổ Tím 5/5

- Phi hổ Tím ... Phi Vụ Xong rời tần số... Panama...

- Chấp thuận...

- Ðài Kiểm Soát Ðà Nẵng... Phi Hổ Tím... hai T28... Xin vào vòng phi đạo và hạ cánh...

- Chấp thuận... Ðường bay 27 phải ... Gió yên lặng..

- Phi Hổ Tím ... Hiểu ... cám ơn Ðà nẳng...

Trong lúc hợp đoàn đáp xong, di chuyển vào bến đậu tôi vẫn còn nghĩ miên man đến... Người Con Gái Áo Trắng… bị thương nặng hay nhẹ, có mệnh hệ gì không? Lòng tôi nặng trĩu lo âu vì trách nhiệm bảo vệ dân lành oằn oại trên đôi vai của người trai thời chiến, nhứt là đối với các anh em phi công khu trục. Chiến trường miền Trung sôi động, biết bao nhiêu... đạn thù bay ngang đầu cánh... một số bạn bè chết non ... gãy cánh vĩnh viễn ra đi, để lại gia đình và vợ con thương tiếc. Th/úy Võ Trường Chí mất tích ở vùng đồng bằng Cửu Long tỉnh Sóc Trăng. Th/úy Trần Như Hạnh gãy cánh khi thả bom Napalm ở ngoài khơi bờ biển Nha Trang trước sự chứng kiến của đồng bào và cả vợ con. Th/úy Nguyễn Văn Nông, phi vụ thả bom Napalm bị phòng không địch bắn rơi tả tơi trong mật khu phiá tây vùng núi Bạch Mã. Th/úy Thư, Nhàn bị mất tích tại bờ biển Ninh Hòa trong vụ hành quân truy kích địch. Nhưng ấn tượng Người Con Gái Áo Trắng khi tôi gặp lại bất cứ một cô gái nào mặc áo dài trắng... gợi lại hình bóng Người Con Gái Áo Trắng Ðiện Bàn được nâng dìu đi chân bước khấp khểnh vạt áo dài trước ôm vào ngực máu đào thắm đỏ của năm xưa... Hình ảnh áo dài trắng vẫn theo đuổi hồn tôi trọn cuộc đời Bảo Quốc Trấn Không và có lẽ theo tôi cho đến hơi thở cuối cùng trên bước đường lưu lạc nơi xứ người.

Chừng một năm sau vào khoảng tháng mười hai năm 1963 chúng tôi được đề cử làm Chỉ huy trưởng Liên Ðoàn Yểm Cứ ở Không đoàn 41 Chiến thuật KQ đầu tiên tại Ðà Nẵng do Th/tá Phạm Long Sửu người anh cả KQ đáng kính và nhiều nể, thành lập trong đà bành trướng của KQVNCH.

Buổi Liên Hoan của Phi Ðoàn 217 H34.

Buổi tiệc ăn mừng của phi đoàn 217 vào khỏang tháng sáu năm 1964 do Ðaị úy Ông Lợi Hồng Phi Ðoàn Trưởng thành lập ở Ðà Nẵng. Khi nhận H34 do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ giao lại, được tổ chức tại phòng họp khá rộng và khang trang của Hàng Không Việt Nam ở lầu một phòng khánh tiết dưới đài kiểm soát không lưu phi trường Ðà Nẵng. Nhiều quan, quân cán chính Việt Mỹ tham dự. Quân Ðoàn có Th/tướng Nguyễn Chánh Thi và đoàn tùy tùng. Bên Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ có Tr/Tướng Walte và đoàn tùy tùng. Không Ðoàn 41 có Th/tá Phạm Long Sửu và anh em Phi Ðoàn 516 Phi Hổ Khu Trục do Ðại/úy Ôn Văn Tài Phi Ðoàn Trưởng hướng dẫn. Bên dân sự có Ðại/tá Thiện, thị trưởng Ðà Nẵng, và rất nhiều người đẹp từ các trường Ðồng Khánh và trường Ðại Học Sư Phạm Huế vào rất đông. Ở địa phương, Trường Nữ Trung Học có một người đẹp như hoa hậu... Cô nữ học sinh lớp 11 tên Thái Thu làm chóa mắt nhiều chiến sĩ và các niên trưởng của vùng hỏa tuyến.

Sau các thủ tục chào cờ Mỹ Việt, Mặc Niệm xong, bài diễn văn đầu tiên do người anh cả của Không đoàn 41 Thiếu Tá Phạm Long Sửu chào mừng các quan khách Việt Mỹ và cầu chúc PÐ 217 gặt hái nhiều kết quả trên chiến trường QÐI.. Trong bài diễn văn Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi thân mến chào tất cả quan khách tham dự buổi lễ hôm nay và khen ngợi sự thành công vượt bực của PÐ 217.

Còn riêng với Tr/Tướng Walte và phái đoàn quân sự ghi ân đặc biệt của dân tộc VN nói chung và nói riêng về Quân Ðoàn I. Sự cảm tình sâu đậm dành riêng cho tất cả quân nhân các cấp của Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Dưới quyền chỉ huy của Tr/Tướng Walte đã cùng chung vai đấu cật chiến đấu anh dũng với quân đội VNCH trong mọi tình huống để chống trả lại quân thù Cộng Sản Bắc Việt xăm lăng. Tới đến bài diễn văn của Tr/Tướng Walte, trước hết ông kính chào toàn thể quan khách tham dự hôm nay, và ông rất hãnh diện với những lời khen, lời cám ơn, lời chúc tụng của Th/Tướng Nguyễn Chánh Thi và Th/tá KÐT41 Chiến Thuật Phạm Long Sửu đối với Sư Ðoàn dưới quyền chỉ huy của ông. Ông rất hứng thú vui vẻ được làm việc chung với Th/Tướng Nguyễn Chánh Thi Tư Lệnh Quân Ðoàn I, sau cùng ông gởi lời khen ngợi đến Phi Ðoàn Trưởng 217 Trực Thăng Ðại/Úy Ông Lợi Hồng và các sĩ quan phi công với phi hành đoàn, cùng các quân nhân các cấp của Kỹ Thuật đã cố công học tập và huấn luyện trong thời gian kỷ lục ba tháng đã hoàn thành một phi đoàn tân lập và đầy đủ khả năng hành quân đổ bộ cho KQVNCH.

Sau cùng Phi Ðoàn Trưởng 217 Ðại/úy Ông Lợi Hồng cám ơn tất cả quan khách hiện diện đông đủ ngày hôm nay và hứa cùng Th/ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Phi Ðoàn sẽ cố gắng hết lòng để hoàn thành các phi vụ đổ quân trong tương lai cho Quân Ðoàn I. Còn riêng về Tr/Tướng Walte TQLC Mỹ, và Trung tá Mỹ (Không nhớ tên) Phi Ðoàn Trường Phi Ðoàn Trực Thăng H34 Mỹ, Ðại/úy Ông Lợi Hồng nhân danh Phi Ðoàn Trưởng Trực Thăng 217 gởi đến toàn thể quân nhân và sĩ quan các cấp Hoa Kỳ đã ra công huấn luyện cho phi đoàn 217 VNCH, lòng tri ân và tình cảm sâu đậm ngàn đời không bao giờ quên ơn các người bạn Mỹ của các quân nhân PÐ217. Sau cùng Ðại/úy Hồng không quên cám ơn sự ưu ái của Th/tá KÐT 41 Chiến Thuật dành cho các nhân viên PÐ 217 trong khi tạm trú để huấn luyện tại Ðà Nẵng. Trước khi dứt lời Ðại/úy Ông Lợi Hồng mời toàn thể quan khách cùng dự buổi cơm thân mật ra ngoài sân trước cửa phòng họp. Các phu nhân của sĩ quan trong phi đoàn tiếp tân xếp hàng đón rước quan khách.

Tr/úy Châu Rết trưởng phòng hành quân đọc thực đơn:

  • Bê thui.
  • Bò Steak BBQ.
  • Tôm Rằng Nướng.( tại Chổ).
  • Bánh mì và Sà lách
  • Nước Uống; Johnny Walker, Beer, Coke, 7Up.

Quan khách và các quân nhân cơ hữu của phi đòan được một bữa cơm ngon no nê. Nhứt là các người bạn Mỹ rất thích món tôm rằng nướng và món bê thui. Họ ăn hết dĩa nầy tiếp tục thêm dĩa khác. Những tiếng Dô... Dô... Dô vang dậy cùng hòa hợp tiếng... Cheer... Cheer... Cheer... rền vang đang nói lên sự liên kết giữa hai dân tộc Việt Mỹ cùng nhau quyết chiến đấu chống quân thù cộng sản. Quyết bảo vệ miền đất tự do Việt Nam Cộng Hòa tiền đồn chống cộng ở Miền Ðông Á Châu. Phòng khánh tiết được trang hoàng chu đáo cho đêm dạ vũ hôm nay. Gồm có hai ban nhạc, một của Thủy Quân Chiến Mỹ và một của KQVN do Tr/úy Tuynh hướng dẫn từ Saìgòn ra. Cho nên đầy hứa hẹn một đêm nhạc dạ vũ vui tưng bừng.Trái đèn địa cầu xoay muôn màu, tiếng nhạc Pasodoble bắt đầu nổi lên, Ð/úy Phi đoàn trưởng khả ái, hào hoa Ông Lợi Hồng dìu người đẹp Ðà thành tên Thái Thu bước ra sàn nhảy để mở đầu buổi dạ vũ hôm nay. Theo đó các quan khách và nhân viên của Phi Ðoàn cũng ra khiêu vũ cùng các người đẹp điạ phương trong bản Paso đầu tiên.

Hầu như toàn thể các người dự tiệc hôm nay đều chung vui trong đêm dạ vũ nầy, sàn nhảy đã đầy chật các cập trai gái dìu nhau qua các điệu nhạc Rumba, Bolero, tiếp theo Slow Rock, Mambo, Twist... làm cho đêm liên hoan được vui tươi thành công trọn vẹn.

Tôi để ý trong một góc bàn ngồi ngoài sân có một tà áo trắng không bao giờ khiêu vũ. Mỗi lần ban nhạc trỗi lên tất cả người ngồi chung bàn đều ra sàn nhảy chỉ còn một mình nàng ngồi lại vẻ mặt tư lự nhìn ra khoảng trời đêm với nghìn ánh sao buồn mênh mông. Tôi bước tới cúi đầu chào làm quen:

- Xin chào người đẹp… cho phép tôi, ngồi lại cùng bàn để trò chuyện cho vui..

- Dạ, chả dám ạ, xin ông cứ tự tiên...

Tôi kéo ghế ngồi kế bên nàng... Sao người đẹp không ra khiêu vủ?

- Em cảm thấy không có thích thú đêm nay.

- Xin người đẹp cho biết quý danh... Tên em là Thùy Trang... Tôi là Tuyền... Hân hạnh gặp ông Tuyền... Hân hạnh được biết Thùy Trang...

- Tên Thùy Trang đẹp quá... Nhưng còn kém xa... người.

Thùy Trang cười mỉm...

- Ðúng là Phi Hổ Tím Một rồi phải không?

Tôi quá ngạc nhiên:

- Sao Thùy Trang lại biết Call Sign (Phi Hiệu) của tôi...

- Vì Em có người anh cô cậu mới về Phi Ðoàn 516 Phi Hổ Khu trục, anh tên là Nguyễn Du... Mỗi lần về thăm gia đình thường hay nhắc tới các ông thầy Papa Sửu, thầy Tuyền và Tài nhiều lắm...

Bản Tango vừa dứt để thay ban nhạc của TQLC Mỹ vào. Từ cặp vào bàn ngồi nào là Huề, Sỉ Cò, Cương Khào, Ninh Lumumba, Ðiềm Sihanouk, Lê Trai Ðại Ðức, Hưng Phệ, Hợi Voi, Phiên Rách, Vũ Nghê Ngô những cây bay của phi đoàn và Nguyễn Du người phi công đẹp trai, trẻ nhứt và gan lì của Phi Ðoàn 516 Khu Trục thấy tôi liền đứng nghiêm chào và nói:

- Kính chào thầy...

Tôi chào lại vừa nói:

- Hèn chi Thùy Trang biết từ đầu cánh chong chóng cho đến cuốí đuôi phi cơ của PÐ 516 hết rồi... không còn gì giấu được Thùy Trang nữa đâu, phải không Phi Hổ..Vàng3...

Nguyển Du cười...

- Dạ thưa vâng.

Ban nhạc Mỹ đã chuẩn bị xong, bản nhạc đầu tiên Let’s Twist Against được đánh lên nghe như máu trong người được vận chuyển mau hơn và sự vận động tay chân càng thêm hăng hái bội phần. Nhạc càng đánh những cặp trai gái càng nghiêng qua nghiêng lại, các động tác của toàn thân người khiêu vũ càng lắc... đít lắc, đầu lắc, chân tay lắc, mình lắc, vú ngực lắc,... theo tiếng hát của người ca sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ... đã đem hết nghệ thuật trình diễn hòa vào lòng nhạc và lòng người làm thêm sống động đêm khiêu vũ hôm nay. Tôi để ý thấy Thùy Trang có một nỗi buồn kín đáo trong tâm tư dù rằng ngoại cảnh đang vui tươi rộn rã. Tôi lên tiếng nhỏ nhẹ hỏi:

- Thùy Trang có tâm sự buồn phải không? Sao tôi thấy Thùy Trang hình như có một tâm sự buồn kín đáo nên không được vui trong đêm nay.

Lời nói của tôi vừa dứt, như một động lực mãnh liệt khơi dậy nỗi buồn đau đã chôn sâu từ lâu trong tìm thức: Thùy Trang nhìn tôi nhẹ nhàng trả lời:

- Em đâu có buồn đâu…

và cúi đầu xoay mặt nhìn qua hướng khác để che dấu hai giọt lệ đang từ từ ứa chảy trên gò má xinh xinh của người trinh nữ. Nàng vội lau đi những giọt lệ rồi nhìn qua tôi. Trên lông mi còn đọng lại những giọt nhỏ li ti lóng lánh như những giọt sương đêm còn tụ động trên đọt lá cỏ may, làm gương mặt Thùy Trang càng đẹp thùy mị và dễ thương hơn. Tôi vội có lời xin lỗi:

- Nếu tôi có nói lời gì khơi động nỗi buồn thầm kín của Thùy Trang, cho tôi muôn vàn xin lỗi!!!

- Không đâu, ông Tuyền không có làm gì Thùy Trang buồn và nếu Thùy Trang có làm ông Tuyền không được vui trong đêm nay, xin tạ tội vậy. Ðêm đã khuya, xin ông Tuyền cho Trang về được không? vì ngày mai Trang còn phải dậy sớm để về Huế thăm gia đình.

Tôi liền nói:

- Thùy Trang muốn tôi đưa về với một điều kiện!

- Ðiều kiện gì vậy?

- Xin đừng gọi tôi bằng Ông.

- Vậy Thùy Trang gọi anh Tuyền hay Tím một?

- Thùy Trang gọi sao cũng được.

- Gọi Ông Tuyền không ổn vì thiếu tế nhị và khách sáo, thôi xin gọi bằng Anh Tuyền hay Tím 1, để cho có vẻ thân tình trong cùng gia đình Phi Hổ và trọng nể để buổi ban đầu gặp gỡ thêm phần ấm êm vui vẻ mong ta còn nhớ mãi về sau.

Tôi đứng dậy kéo ghế để mời Thùy Trang cùng ra xe, tôi hỏi xem Thùy Trang về đâu? Nàng bảo, em về bên Sơn Trà mà Không Quân các anh thường gọi xóm Monkey Mountain. Xe chạy ra khỏi cổng phi trường tôi quẹo tay phải hướng về phía biển để đưa Thùy Trang về nhà. Xe chạy qua khỏi cầu... vừa vào con đường nhỏ của quận, có rất nhiều ổ gà làm xe Jeep chao đảo sụp xuống nhồi lên. Chắc có lẽ vì chiến tranh, quận năm Sơn Trà chưa có tiền để tu bổ nên tình trạng đường xá càng ngày càng tệ hơn. Nhưng bù lại, nhìn ra ngoài biển đèn ghe đánh cá về đêm sáng cả một vùng trời, như một thành phố nổi riêng biệt ngoài khơi đẹp đẽ muôn màu dễ làm ấm dịu lòng người đang có tâm sự đau buồn như Thùy Trang.

Xe rẽ qua con đường tráng nhựa cũ kỷ đầy hang lỗ chắc còn ghi lại vào thời kỳ Pháp thuộc năm xửa năm xưa. Ở chân núi Sơn Trà chạy thẳng ra biển xóm nhà vách tường và lợp ngói đỏ có vườn tược chung quanh, những hàng dừa xanh nên thơ cành lá xum xê đang reo đùa trước gió. Thỉnh thoảng Trang cho tôi biết có những vườn nhãn hột tiêu trái vừa chính mùi thơm như mời gọi đám dơi tứ phương tám hướng về hưởng thụ. Xe chạy tới bờ biển, Thùy Trang chỉ cho tôi đậu xe dưới hàng dương liễu thân cây nghiêng về phía đất liền chứng tỏ hướng gió biển luôn luôn thổi mạnh từ biển vào đất.

Thùy Trang nói:

- Chúng mình ngồi đây nhìn trời biển về đêm được không anh?

Tôi trả lời:

- Anh hoàn toàn đồng ý và chấp thuận lời đề nghị của Thùy Trang.

Tôi cho xe đậu lại chiều ngang theo bãi biển dưới hàng dương liễu, về đêm nhìn ra biển khơi những đóm đèn mờ tỏ của các thuyền đánh cá như cả một thành phố trên mặt nước chông chênh. Trên vòm trời có vạn tỷ vì sao như một bức tranh thiên nhiên êm đẹp diệu hiền khó tả và làm lòng người có tâm sự buồn đau như Thùy Trang cũng được trầm lắng xuống dễ chịu hơn trong cảnh nên thơ hiếm có như đêm nay. Tôi vào xe lấy áo ấm jacket phi hành để trải xuống bờ biển cho Thùy Trang ngồi dựa lưng vào thành xe jeep. Trời về đêm vào khoảng tháng sáu nóng bức vì ảnh hưởng gió lèo thổi qua khi ngồi xuống bãi cát vẩn còn thấy ấm bàn tọa. Trên bờ biển nhờ đêm nay trời yên lặng không gió không một đợt sóng, những con dã tràng hăng say tranh đua nhau xe cát làm từng viên nhỏ như đang vui chơi trong trời ấm áp.Thùy Trang và tôi ngồi kế bên nhau tâm sự giữa trời nước mênh mông, mặt biển yên như tờ.

Thùy Trang cất tiếng êm nhẹ :

- Anh có biết không, Thùy Trang chỉ tay về hướng Bắc, nơi bãi biển nhỏ bé xinh đẹp nên thơ và kín đáo nầy ngày xưa có những nàng tiên xuống trần gian để đi tắm biển đó! Nếu ban ngày mình sẽ nhìn thấy các cánh bông hoa rừng xinh tươi muôn màu mọc lên từ các kẻ hở đất cát và vách đá dựa lưng vào Núi Sơn Trà trông rất nên thơ và một vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt diệu. Bức tranh thiên tạo ít có trên trần gian. Không chừng vì lẽ đó nơi đây ngày xa xưa các nàng tiên xuống trần để vui đùa cùng sóng nước biển trong xanh trên nền cát trắng mịn, ngắm nhìn các vách đá với những hoa đẹp muôn màu. Các nàng tiên với thân hình đẹp hoàn hảo, dưỡng nghỉ dưới những tàn cây xanh tươi rợp bóng mát trong mùa nắng hạ, nên nhân gian mới cho tên rất mỹ miều thơ mộng bãi biển Tiên Sa.

- Anh cũng mới biết đây, nghe nói ngày xưa có các nàng tiên giáng xuống trần để vui đùa sóng nước với cảnh thiên nhiên. Anh không biết các nàng tiên ngày xưa đẹp như thế nào vì anh lúc đó còn là hạt bụi nhỏ đang bay lang thang ngoài không gian... nên chưa được gặp bao giờ. Nhưng có một điều anh chắc chắn rằng các nàng tiên xuống đây mặc quần áo tắm toàn kiểu rất mắc tiền hiệu... No... Kini…

Thùy Trang liền hỏi:

- Em thường nghe nói áo tắm cho phụ nữ là phải Bikini hay quá lắm... Monokini, chớ còn em chưa bao giờ nghe thứ áo tắm kiểu No... Kini. Vậy No… Kini là thứ hiệu nào, mặc ra sao vậy anh?

Tôi nhìn Thùy Trang nghiêm nghị giải nghĩa:

- Bi... là hai mảnh, Mono là một mảnh ... No .. Kini là... không có mảnh nào hết. Nghĩa là "cuồng trởi"...

Thùy Trang đôi mắt diụ vợi thơ ngây, không một lời, với một cử chỉ nhè nhẹ nàng hất cánh tay vào hông tôi, nhìn tôi mỉm cười đầy trìu mến và nói:

- Anh nầy...

Ngồi bên nhau nàng kể tôi nghe về gia đình nàng di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, cư ngụ tại Huế. Người cha ngày trước đi lính cho Pháp vào Nam được đi học ra trường sĩ quan Ðồng Ðế chừng độ năm mươi tuổi đang làm đại đội trưởng Ðịa Phương Quân đóng đồn ở quận Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Hai người anh một người hai mươi ba tuổi đang học trường kỹ sư Phú Thọ và một người anh hai mươi mốt tuổi kế Thùy Trang đang học ở trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, nàng mười chín tuổi hiện đang ở với cô chú để theo học trường nữ trung học... tại Ðà Nẵng và đã thi lớp 12 xong. Năm nay phải vào Qui Nhơn bốn năm nữa cho xong Ðại học Sư Phạm nên không ở theo gia đình được. Nàng còn hai đứa em một gái kế nàng 15 tuổi đang bắt đầu vào trung học Ðồng Khánh và em trai mới ba tuổi. Tôi nhìn nàng cười hóm hỉnh và nói:

- Ông già còn Gân quá há!!! nên em mới có đứa em mới ba tuổi đầu?

- Mẹ em đâu có muốn đâu nhưng anh phải hiểu cho đời lính chiến, lâu lâu ba em mới về thăm nhà mà lỵ... Thả giàn.

Tôi bảo cho nàng biết về địa thế ở quận năm, phiá Bắc có núi Sơn Trà, có bãi biển Tiên Sa, ở phía Ðông có biển Mỹ Khê, ở phía Tây thạch động Tiên Trú tại núi Ngũ Hành về phía nam. Cho nên các nàng tiên xuống Tiên Sa tắm biển, lên núi Sơn Trà thưởng thức trà và đàm đạo, rồi về thạch động Tiên Trú... để ngủ qua đêm.. Ngọc Hoàng đã dành một chổ... rất tiện lợi cho các nàng Tiên xuống trần...

Tôi ngừng ở đây... Thùy Trang nhìn tôi mơ màng trìu mến hỏi:

- Tiên xuống trần, rồi để làm gì... nữa hở anh?

- Thì các nàng Tiên đi... nghỉ mát. Vacation… và có một nàng tiên mới nhìn dễ mến, nhìn lâu thêm yêu... Nàng lỡ tay đập bể bình nước của Ngọc Hoàng cho đem theo uống chớ sợ nước trần gian ô nhiểm nên bị đày ở lại và hiện giờ hình như đang lang thang... ở bãi Tiên Sa trong đêm nay… Và… tôi ngưng ở đây… Trang nhìn tôi hỏi:

- Nàng tiên đang lang thang... làm gì ở đâu hở anh?

Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt ngây thơ dịu hiền của Thùy Trang, rồi thả tầm mắt ra biển đông:

- Nàng Tiên đang... đang... ngồi kế bên anh đây chắc đúng rồi thì phải? Chớ còn gì nữa... phải không em.

Nàng mỉm cười e lệ nhìn tôi và bảo...

- Anh sao khéo nói...

Hai đứa chúng tôi cười bên nhau trong đêm thanh vắng giữa trời nước mênh mông. Nàng dựa đầu vào vai tôi hơi thở nhè nhẹ thơm và trìu mến ngước nhìn tôi... Tôi luôn thận trọng và thương nể những người con gái tôi gặp lần đầu tiên... đó là tánh của tôi không bợp chợp không lợi dụng. Chúng tôi đứng dậy thả dài theo bãi biển, tôi kể chuyện ra đây nhận nhiệm vụ mới ở căn cứ KQ Ðà Nẳng. Mấy người bạn dẫn đi chung quanh cho biết dân tình, anh thấy địa hình của khu nầy rất hữu tình thật đẹp. Phía bắc có núi Sơn Trà, có bãi biển xinh xinh đẹp nên thơ Tiên Sa, bên ngoài có biển Mỹ Khê, bên phía trong có núi Ngũ Hành toàn đá cẩm thạch... Có chùa Non Nuớc, có thạch động Tiên Trú, xa hơn nữa theo tỉnh lộ lần về phía nam có quận Ðiện Bàn.

Tiếng Ðiện Bàn vừa dứt, chúng tôi đang đi, Thùy Trang đứng lại xoay qua nhìn tôi với ánh mắt ngỡ ngàng thoáng buồn và thốt lên lời hơi rung động:

- Anh cũng biết Ðiện Bàn nữa sao?

Thùy Trang quay trở về lại hướng xe Jeep đang đậu, tà áo trắng bay phất phơ, bước đi khập khểnh, chiếc khăn tay che vào miệng để khỏi bật lên thành tiếng khóc. Tôi bàng hoàng bước theo Thùy Trang và cất tiếng xin lỗi:

- Thùy Trang em, nếu anh có nói gì không phải và chạm phải vào đời tư và tâm sự u buồn của em. Anh xin muôn vàn tạ lỗi vậy!!

Nàng vẫn khóc thút thít và nói thì thầm bên tai tôi:

- Trời ơi!! Em khổ lắm anh Tuyền ơi!!! Em khổ lắm!!!!

Khi đến xe Jeep chúng tôi ngồi xuống, nàng tựa lưng vào tôi dù rằng Thùy Trang đang cắn chặt chiếc khăn tay vẫn còn khóc, bờ vai run run và than thở trong tiếng nấc:

- Trời Phật ơi!!! Ðiện Bàn ơi!! Tại sao lại xảy ra cho đời con phải khổ thế nầy?

Tôi khuyên Thùy Trang:

- Trong đời ai cũng có lầm lỡ, đừng mang theo mãi trong lòng để càng ngày càng lớn nặng tâm tư làm em khổ thêm thôi. Em hãy nói ra đi để được vơi bớt sự đè nén lòng mình trong muôn một.

Thùy Trang càng nấc lên nhiều hơn, tôi tiếp tục khuyên nàng:

- Nói đi em, nói đi em, để anh chia xẻ cùng em cho vơi được nỗi tâm sự buồn đau trong tận cùng của con tim.

Sau một hồi, tiếng nấc lần bớt lại, Thùy Trang ngước nhìn tôi,với hai dòng lệ nóng tràn dâng chan hòa lên khóe mắt với khuôn mặt nặng trĩu buồn đau và nói:

- Em chưa lầm lỗi trong đời, em chỉ là người con gái trời bắt phải khổ đau thôi. Vết thương đó còn lưu mãi trọn đời, khi em tắm dòng nước mát chảy vào càng đau nhói vào tim, thay quần áo đụng vào còn ê ẩm xót xa và khi nhìn xuống càng buồn hận não lòng cho đời người con gái. Em sẽ mang nó mãi mãi trọn đời cho đến hơi thở cuối cùng khi em đi về miền Miên Viễn…

Thùy Trang bắt đầu kể:

- Mùa hè 1962, lúc bải trường, nếu em chịu nghe lời và cùng đi với mẹ về Huế thì việc chắc không xảy ra. Em được Dì mời cùng đi chung vì em nóng lòng muốn xuống Ðiện Bàn để gặp thăm...

- Chắc em nôn nóng đi gặp người tình muôn thuở hay người yêu suốt đời của em chớ gì?...

Thùy Trang nghe tôi hỏi bắt đầu khóc ra tiếng trở lại...

- Không đâu anh...

- Hoặc Thùy Trang lỡ gặp một chàng đẹp trai mộng tưởng sở khanh nào đó, phá đời trinh nữ, rồi gã quất ngựa truy phong để hận muôn đời trong lòng người trinh nữ phải không em?

- Không phải đâu anh!!! Em đi xuống thăm ba... bằng xe đò...

- Trời ơi!!! Người cha nào tàn nhẫn vô lương tâm vậy, con gái xuống thăm mà để hận lòng tủi nhục suốt đời cho con vậy?

- Không phải như anh tưởng đâu... nghĩ vậy làm thêm đau lòng Trang… Xe đò xuống gần đến quận Ðiện Bàn còn cách chừng hai cây số đến chỗ ba em đóng đồn Ðiạ Phương Quân. Thấy có lính ra chận xe, hành khách tưởng đâu Địa Phương Quân trạm xét hỏi như thường lệ, nào ngờ đâu chúng nó lùa tất cả mọi người xuống trong đám rừng...

- Chắc lính ÐPQ chúng nó làm hỗn hại đời trong trắng của em phải không? Cho anh biết đồn ở đâu, nếu có một cơ hội nào bay ngang qua anh gởi tặng cho chúng nó vài trái bom 500 cân nhắc nhở anh em đừng hãm hại dân lành, phải bảo vệ sinh mang tự do và đời sống của họ.

- Không đâu ... Tím 1 ơi!!! Đó là tụi lính việt cộng đang định tấn công đồn ba em đó... và phi cơ khu trục bay đến yểm trợ. Chiếc phi cơ đầu bắn một loạt súng, phi cơ thứ hai vừa nhào xuống... ngưng bắn lại kéo lên, may là không thả bom.

Tới đây Thùy Trang ôm ngực, càng sùi sụt khóc lớn trong tiếng thở than...

- Sao Trời Phật không cho lằn đạn hôm đó nhích thêm chừng một phân nữa đi thẳng vào xuyên tim em chết tức khắc trong giây phút... Như vậy sướng cho đời con gái của em hơn. Sao trời lại bắt đời người con gái phải mang vết đau và tật suốt đời... và phận sự làm mẹ trong tương lai không còn đủ khả năng nữa.

Vì khi Thùy Trang đang chơi vơi trong biển đau khổ tột cùng như muốn tìm ai chia sẻ và nâng đỡ tinh thần. Nàng không ngần ngại trịt áo dài và áo nịt xuống một phần để lộ rõ ra trên bộ ngực hai bầu sữa của Thùy Trang không còn nguyên vẹn vì viên đạn lạc vô tình. Chỉ còn để lại những vết thẹo sần sùi lồi hủn vì đường may không khéo tay của các y tá bịnh viện. Tôi siết chặt Thùy Trang trong vòng tay, tim như đứng lại, thiếu nhịp không đủ chuyển máu đi nên đóng băng toàn thân, toát mồ hôi lạnh. Ðời sao quá nghiệt ngã để tôi rơi vào một tình huống phũ phàng ngang trái thế nầy.

Nỗi đau buồn cùng cực của người nữ học sinh ngây thơ vô tội vì chữ hiếu đi thăm cha mà nên nổi nầy... đang dày xéo con tim tôi. Lời nguyền và tinh thần trách nhiệm của đời phi công Khu Trục là bảo vệ dân lành đang cắn xé và nghiến nát tâm cang tôi, sẽ pha hòa lẫn vào dòng máu tôi cho đến trọn đời. Tôi cắn môi đến rỉ máu để khỏi bật tiếng khóc. Nhưng hai giòng nước mắt âm ấm rơi từ từ xuống trên lòng ngực Thùy Trang, không chỉ mong để chia bớt và xoa dịu phần nào vết thương đau ngàn đời trên người trinh nữ, mà mong hòa lòng hối hận mông lung đang tràn ngập đời phi công khu trục của tôi... với tâm sự người con gái trời bắt khổ đau.

Sau những tiếng Thùy Trang thở than, nào là Tím 1 ơi!!! Phi cơ khu trục đến... bắn loạt súng đầu... phi cơ thứ hai nhào xuống... ngưng bắn ... kéo lên... đã kéo trả tôi trở về với dĩ vãng...

Ngày X tháng Y, năm 1962... vào một buổi chiều hè... Panama gọi phi vụ khẩn cấp... Tiếng Bạch Ðằng gọi ... Phi Hổ Tím... Hình ảnh... Người áo trắng... Ðiện Bàn... đi khấp khểnh tay ôm ngực đầy máu tà áo sau bay phất phới…đã theo đuổi tâm hồn tôi trong hai năm qua. Giờ đây tôi gặp được người bằng da bằng thịt, người nữ sinh nạn nhân của chính tay tôi và phận sự của đời trai tôi không làm tròn cho đất nước để bảo vệ dân lành. Chính tôi là thủ phạm và chịu trách nhiệm viên đạn vô tình đã để lại vết hằn trên thân thể của người trinh nữ vô tội giữa hai lằn đạn bạn và thù. Tại sao cao xanh quá trớ trêu và thần linh trên quả đất tròn rộng lớn nầy, đã xui khiến cho tôi gặp lại nạn nhân đau khổ mà chính tay tôi gây ra. Thùy Trang cài nút áo lại sau mấy giọt nước mắt ấm xót đau thương, ăn năn hận tủi rơi vào vùng đỉnh cao chiến thuật của Thùy Trang.

Nàng ngước mặt lên:

- Tím 1 cũng khóc để chia sẻ nỗi đau buồn vô tận của tâm tư cùng Trang phải không?

- Ðúng vậy, nhưng anh xem đó không chỉ là phần thân thể thầm kín của Thùy Trang, mà nơi tượng trưng lòng đất mẹ bị cày nát vì những vết bơm đạn đau thương hằng ngày chính các anh phải mang đi để ngăn giặc chặn thù trên mảnh quê hương đất Việt miền Nam.

Trời đã quá khuya hơn hai giờ sáng rồi, muôn vạn vì sao đang chớp trên nền trời, gió im lặng. Cảnh vật như chìm đắm vào tâm tư đau buồn của Thùy Trang hòa cùng nỗi lòng tan nát vì trách nhiệm của người phi công khu trục trong thời chiến tranh tương tàn của đất nước Việt. Thôi chúng mình về đi em, Thùy Trang lên xe, tôi rồ máy trực chỉ nhà nàng. Chừng năm phút sau tôi ngừng lại trước cửa một nhà khá khang trang, cổng vào có giàn hoa thiên lý và hoa lài tỏa một mùi hương thơm dìu dịu làm dễ chiụ lòng người trong đêm khuya thanh vắng. Trước khi bước xuống xe Thùy Trang bảo:

- Nếu vì chuyện của em làm buồn lòng Tím 1 đêm nay, Thùy Trang xin tạ lỗi cùng Tím 1. Bước xuống xe nàng đi vòng qua bên trái chỗ tôi lái xe đứng sát bên nhìn tôi và nói :

- Một lần nữa xin cám ơn Tím 1 đã cho Thùy Trang một đêm tâm sự đầy tình người.

Tôi chúc lại Thùy Trang mau thành cô giáo sư đẹp của miền Sông Hương Núi Ngự. Nàng mở cổng hàng rào đi vào gần đến cửa nhà, tôi biết thế nào Trang cũng trở ra. Cái ví của nàng còn nằm dưới ghế xe tôi, lẹ tay tôi móc túi sau quần lấy trọn bao thơ mà lương của tôi vừa lãnh hồi chiều nhét vào chiếc ví của Thùy Trang. Em trở ra đứng áp sát bên tôi, ngước mặt nhìn tôi với đôi mắt ngây thơ như đang chờ đợi. Tôi lắc đầu nhẹ, lòng tôi ngỗn ngang. Tôi đang cầm chiếc ví, tôi trao cho Trang, nàng nói cám ơn và hôn nhẹ vào bên má trái của tôi rồi thoăn thoắt đi vào nhà. Tôi nói vói theo khi Thùy Trang khi vào đến cổng:

- Anh có gởi cho em món quà trong ví.

Tôi rồ xe chạy đi, Thùy Trang chạy trở ra cổng và còn đứng trông theo cho đến khi xe quẹo vào tỉnh lộ. Tôi vẫn còn thấy màu áo trắng và sẽ theo đuổi hồn tôi trọn kiếp người. Ngày mai, sau khi đi bay về nhận được tờ thư của Thùy Trang do Phi Hổ Vàng 3 Nguyễn Du đem đến, nàng có đôi lời cám ơn Tím Một và sẽ dùng món quà trọn cho năm học tới ở trường Sư Phạm Qui Nhơn.

Tháng sáu 1964 tôi đổi về làm chỉ huy trưởng Căn Cứ Tân Sân Nhứt tôi không theo dõi Thùy Trang cho đến năm 1972, khi ra nhận lãnh Căn Cứ 60 Chiến Thuật KQ Phù Cát do Mỹ trao lại, trong chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Tôi có dịp ra thăm Căn Cứ KQ Ðà Nẵng gặp lại Thiếu tá Nguyễn Du, cho biết Thùy Trang đã ra Trường Sư Phạm và làm việc tại Qui Nhơn về thăm gia đình ngoài Huế miền An Cựu vào dip Tết Mậu Thân, cả gia đình đã bị thảm sát, chỉ trừ có người anh thứ ba còn sống mà không biết bây giờ đang phiêu bạt nơi đâu...

Lời Cuối Với Thùy Trang

Thùy Trang em, Tím 1 xin tạ tội cùng em vì anh đã không đủ can đảm thú thật với em, anh chính là người đã gây ra sự đau khổ trọn đời của vết thương trên thân thể người trinh nữ. Anh không muốn gây cho em một ấn tượng ác cảm với các anh em trong Phi Ðoàn 516 Khu Trục Phi Hổ. Trong lúc em có cảm tình sâu đậm và coi mình cũng là một phần trong gia đình Phi Hổ vì có người anh chú bác Phi Hổ Vàng Thiếu tá Nguyễn Du. Tím 1 giữ kín và mang nặng trong lòng nỗi buồn thầm kín tàn phá tâm tư, anh chưa bao giờ thổ lộ cho ai biết đúng nửa thế kỷ từ năm 1964 cho đến nay 2014. Tà Áo Trắng của Cô Gái Ðiện Bàn vẫn vờn bay trong tiềm thức anh, khi Tím 1 nhìn thấy tà áo trắng nào tung bay, anh liên tưởng ngay đến tà áo Thùy Trang... Cô Gái Áo Trắng Ðiện Bàn.

Thùy Trang mến, anh đã tám mươi hai tuổi rồi, anh không còn mang nổi mối ân hận về lòng trách nhiệm đó nữa. Vì sau khi anh mổ tim từ 9/9/10 cho đến hôm nay 1/18/14, hơn bốn năm bốn tháng rồi anh không viết thêm được dù chỉ đoạn chót, lúc từ biệt Thùy Trang bên hàng rào đầy hương thơm bông lài và hoa thiên lý trong đêm buồn không trăng nhưng nhiều sao tâm sự cùng nhau ở bãi biển thơ mộng gần Tiên Sa. Mỗi lần anh ngồi xuống là anh thấy màn ảnh trên máy vi tính mờ đi khi giọt nước mắt rơi trên máy. Gợi lại hình ảnh những giọt nước mắt của ngày xa xưa rơi trên vết thương muôn đời không bao giờ lành trên cơ thể em hiện ra làm anh lạnh run và toàn thân tê dại anh phải tắt máy đi. Nhưng hôm nay anh phải cố gắng lắm viết cho xong lời nguyện cầu để gửi đến chúc Thùy Trang và gia đình được hưởng trọn Nhan Thánh Chúa vĩnh cửu nơi Thiên đàng.

Tím 1

Ngày 1/18/14, lúc 3:45 sáng tại Pleasant Hill City, CA 94523.



Sunday, November 6, 2016

Chuyện Xưa

Kiến Hòa

Tất cả về đây hành trang kỷ niệm
Không phải cuộc tình thơ mộng năm nào
Mà là những ngày hành quân lửa đỏ
Áo cởi trần tránh nắng dưới thân tàu

Bịch gạo sấy vừa nuốt xong đã đói
Miệng khô cào, nôn nóng chờ đổ quân
Những cột khói bốc cao nơi bãi đáp
L-19 đang hướng dẫn những phi tuần

Một khu trục vút lên thân bốc khói
Trúng đạn thù mây trắng lại nở hoa
Dù khẩn cấp nhờ gió đưa tránh đạn
Cứu cấp liền bất kể địch gần xa

Buổi sáng đáp ở đồi Charlie tiếp tế
Hỏa lực thù đã cướp một đời trai
Tiểu đoàn dù có đủ đạn tử chiến
Không quân mất đi một phi công tài

Đêm đen hỏa châu lung linh rừng núi
Đáp triền đồi đem mạng sống cứu người
Những cuộc dội bom đêm radar hướng dẫn
Cộng điên đầu không một phút nghỉ ngơi

Thế đó không quân hào hùng chiến đấu
Gắn bó nhau trong tình nghĩa đệ huynh
Lúc chinh chiến quên mình vì nhiệm vụ
Đến bạc đầu mong giữ một chút tình



Friday, November 4, 2016

Biên Cương Hành!

Do yêu cầu của một số chiến hữu Không Quân ái mộ, Ban Biên Tập của trang blog SĐ6KQ VNCH vinh hạnh post một trong những tiểu phẩm đặc sắc đề cập không quân Pleiku của nhà văn KQ Trần Ngọc Nguyên Vũ, xin giới thiệu "Biên Cương Hành." BBT

Trần Ngọc Nguyên Vũ

(Để nhớ về vùng đất một thời cùng bạn bè ta đã ở.)

Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân.

(Chinh Phụ Ngâm)

(Từ ngàn xưa đến nay, không có cuộc chiến nào mà không gây ra những sự xa cách, mất mát, đợi chờ mong nhớ tiếc thương... Trong "Chinh Phụ Ngâm Khúc" một kiệt tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam, thi hào Đặng Trần Côn đã diễn tả nỗi lòng của người "chinh phụ" với những dằn vặt ngày đêm theo dõi bước quân hành gian khổ, và hiểm nguy nơi biên cương quan tái chốn xa trường của "chinh phu"...)

Phi tuần Tây Tiến!

Bốn chiếc khu-trục cơ AD5 chở 9 Phi-Công từ Biên-Hòa lên PleiKu, bình phi trên cao độ 11,500 bộ trong đội hình di hành, lao mình về hướng Tây Bắc. Tôi ngồi ghế phải làm "phi-công phụ" đọc bản đồ và thay đổi tần số cho Đại-Uý Lê Thanh Hồng Vân, "Trưởng Phòng Hành-Quân" của Phi-Đoàn 514 dẫn đầu phi-tuần. Liếc nhìn qua hai bên cánh, tôi thấy hợp đoàn lướt trên những cụm mây bồng bềnh dưới đôi cánh bạc, trông như những con phượng-hoàng đang xoải cánh vẫy vùng trong vòm trời cao rộng...

Nghĩ đến người vợ mới cưới chưa đầy 24 tiếng đồng hồ của mình, chưa được hưởng hết những hương vị ngọt ngào của hạnh phúc lứa đôi, đã phải đóng vai người "Chinh Phụ" trẻ tiễn "Chinh Phu" băng mình vào nơi gió cát, lòng tôi hụt hẫng, xót xa. Mới đêm hôm qua đây thôi, tôi còn cùng người bạn đời đắm chìm trong điệu nhạc bổng trầm qua tiếng dương cầm điêu luyện của nhạc sĩ Lê Văn Thiện trình bầy để riêng tặng cô dâu và chú rể. Liên gục đầu trên vai tôi đón nhận những giây phút tuyệt vời nhất của một đời người con gái thì Dương Ngọc Ẩn lướt theo tiếng nhạc, tiến đến nhét vào túi tôi tờ sự vụ lệnh thuyên chuyển và nói nhanh: "Sáng mai đúng 5:30 tao với thằng Long sẽ đến đón mày lên Biên-Hòa để đi PleiKu..." Tôi không nói gì chỉ ghì chặt người yêu trong vòng tay, dìu nàng đi trọn bản nhạc tình... Đêm ấy khi khách khứa và bạn bè đã ra về, thì tiệc rượu hợp cẩm của chúng tôi bỗng biến thành buổi tiệc tiễn đưa, và nước mắt cô dâu đã làm ướt đẫm chiếc gối thêu ngày cưới...

Đêm tân hôn, đêm động phòng hoa chúc, cái khoảnh khắc tuyệt vời đáng ghi nhớ nhất của một đời người, đã được dàn trải theo với tâm tình u uẩn của người trai thời loạn qua những vần thơ bi tráng và lãng mạn:

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê (1)

Có cuộc ra đi nào của người lính mà không để lại cho người ở nhà những đợi chờ mong nhớ xót xa, và biết đâu một chuyến trở về bất chợt của người trai từ chốn biên cương quan tái, lại chẳng phải là một món qùa quý giá nhất cho người vợ trẻ của mình đó hay sao...Thấy tôi ngồi thừ người ra, Vân nắm chặt cánh tay tôi cười nói:

- Nhớ cô dâu phải không. Tao đã bảo mày là cứ ở nhà đưa vợ đi hưởng tuần trăng mật. Mọi chuyện để tao lo mà.

Tôi không nói gì, chỉ mỉm cười thầm cám ơn tấm chân tình của người bạn cùng đơn vị...Khi bay qua khỏi Phú Bổn, Vân bấm máy liên lạc với đài kiểm báo Peacock xin xuống cao độ, rồi rời tần số Peacock để liên lạc với Pleiku.

- Đài kiểm soát Pleiku, đây "Phượng-Hoàng Tây Tiến" gọi, bạn nghe rõ không trả lời.

Tiếng người kiểm thính viên vang lên qua tần số:

- "Phượng-Hoàng Tây Tiến", PleiKu, nghe bạn 5/5. Chúng tôi đã được Peacock thông báo và đang đợi bạn. "Welcome Home" Phượng-Hoàng Tây Tiến. Xin bạn cho biết vị trí.

Nghe tiếng trả lời dồn dập cùng lời chào đón chân tình và háo hức của người kiểm thính viên từ đài kiểm soát, tôi thấy lòng mình như ấm lại... Từ trên cao độ tôi thấy núi Hàm Rồng lờ mờ hiện ra, nằm hớ hênh trong màn sương mỏng manh của buổi ban mai như mời mọc bước chân lãng tử đa tình. Chếch lên phía Bắc một chút là phi-đạo của phi-trường PleiKu nằm vắt mình theo hướng Đông - Tây trên ngọn đồi Cù-Hanh cạnh Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn 2 & Quân-Khu 2. Xa hơn chút nữa là Biển Hồ với mặt nước phẳng lặng lấp lánh như một tấm gương phản chiếu lên nền trời xanh ngắt. Toàn bộ khung cảnh của thành phố PleiKu trải dài theo quốc lộ 14, ngoằn ngoèo như một con mãng xà khổng lồ xuyên qua vùng núi đồi trùng điệp, bò theo hướng Bắc - Nam. Thật ra PleiKu đối với tôi không xa lạ gì. Tôi đã từng đến và đi lại nơi đây nhiều lần, nhưng lần này tôi tự nhiên cảm thấy hồi hộp, vì sau khi đáp, chúng tôi sẽ nhận vùng đất đầy oan nghiệt này làm quê hương. Rồi đây mỗi khi chiều về, sẽ có thêm những đôi mắt vời vợi của người vợ trẻ bồng con tựa cửa đợi chờ những cánh chim mệt mỏi hiện ra từ cuối chân trời, và vào những ngày mưa phùn lầy lội, cô hàng nơi quán vắng lại có dịp ngồi nghe và chia sẻ tâm tình cùng với những người khách lạ phương xa. Người ta nói rằng PleiKu là vùng đất có một ma lực vô hình giữ chân người khách lữ...Chẳng biết có phải cái " ma lực vô hình" đó đã kéo tôi và bè bạn trở lại với PleiKu ngày hôm nay hay không.

Vân lắc cánh ra hiệu cho phi tuần vào đội hình cận phi rồi bấm máy liên lạc với đài kiểm soát. - Đài kiểm soát PleiKu, cám ơn lời chào mừng của bạn. Hiện tại "Phượng-Hoàng Tây Tiến" đang ở phía Nam PleiKu khoảng 7 dậm. Cao độ 5,000 bộ.

Chúng tôi xin làm một cái "low pass" trên phi-đạo trước khi hạ cánh. Bạn nghe rõ không trả lời.

Tiếng người kiểm thính viên lại dồn dập vang lên:

- Roger! "Phượng-Hoàng Tây Tiến", Pleiku nghe bạn 5/5. Hiện tại thời tiết PleiKu trời quang, gió nhẹ, tầm nhìn xa 10 dậm. Bạn sẽ làm "low pass" trên phi đạo 09. Lấy cao độ về hướng phải. Cũng xin cho bạn biết là toàn bộ chỉ huy của Không-Đoàn 72CT, cùng các nhân viên phi-đạo đang đợi bạn ở bãi đậu A1.

Vân trả lời Đài Kiểm Soát rồi bấm máy liên lạc với các bạn:

- Chúng mình có khán giả. Ráng làm cho đẹp nghe tụi bay.

Những tiếng bấm nút vô tuyến cùng giọng trả lời chắc nịch đầy tự tin của mọi người vang lên trong nón bay. Tôi quay qua nhìn các bạn đang ở trong vị trí hợp đoàn sát cánh mà tưởng chừng như không còn có thể nào bay sát gần hơn được nữa. Tôi thật sự cảm thấy hãnh diện vì họ, những Phi-Tuần Trưởng Khu-Trục dầy dạn kinh nghiệm chiến trường cũng như huấn luyện. Những cánh chim sắt đang nối gót các bậc đàn anh, đã từng tung hoành ngang dọc trên bầu trời lửa đạn qua những phi vụ "bình Nam phạt Bắc." Tuy loại phi cơ Skyraider không phải là loại dùng để phi diễn hợp đoàn, vì "lực xoắn" (torque) của nó rất mạnh, nhưng khi đã ở trong tay của những "hung thần" trong nghề bay này, thì một số những phi tác khó nhất cũng chỉ là chuyện nhỏ. Bên cạnh tôi, Vân đưa phi tuần vào trục song song với phi đạo ở cao độ 50 bộ. Nhìn xuống bên dưới tôi thấy những cánh tay giơ lên vẫy chào rối rít. Bốn chiếc phi cơ luớt ào trên sân bay rồi bất thần cùng bốc lên như những cây pháo thăng thiên, vặn mình rít lên trong bầu không khí yên tĩnh của buổi ban mai, rồi nghiêng cánh 90 độ về bên phải, kéo theo những vệt khói trắng trải dài trên nền trời trông như những dải lụa mềm mỏng bung ra từ những đôi tay ngà ngọc của giai nhân vờn trên sóng nước nơi dòng sông thiên hà.

Từng chiếc phi cơ lần lượt nhẹ nhàng hạ cánh, rồi di chuyển về nơi đầu phi đạo 27. Bốn người cơ trưởng A1 chạy ra đón, và bằng những động tác chuyên nghiệp, họ hướng dẫn phi cơ vào bãi đậu. Bốn chiếc khu-trục gầm gừ như những con tê giác khổng lồ đậu sát nhau theo hàng ngang. Vân ra hiệu cho phi hành đoàn cùng gấp cánh và tắt máy. Cả chín người trong đoàn "Phi-Công Tây Tiến" đồng loạt đứng dậy, tay ôm nón bay bước ra khỏi phòng lái, trông nhịp nhàng và đều đặn như những phi công thuộc các phi đội biểu diễn chuyên nghiệp, rồi cùng nhẩy xuống đất đứng nghiêm mình chờ đợi.

Thiếu Tá Định với tư cách là tân Phi-Đoàn Trưởng bước tới đứng trước mặt mọi người, rồi ông hướng về phía Trung Tá Bá để trình diện với vị Không-Đoàn Trưởng toán phi công đầu tiên của Phi Đoàn 530 vừa đến PleiKu. Trung-Tá Bá oai nghiêm trong bộ quân phục Kaki mầu vàng của Không-Quân; trên ngực áo gắn bốn hàng huy chương và đôi cánh bạc có râu làm tăng thêm phong độ hào hùng của một người chỉ huy. Nhìn ông tôi thấy ông giống như danh tướng McArthur của Hoa Kỳ đang lội nước duyệt đoàn quân giải phóng Phi Luật Tân ngày nào. Đi bên ông là Thiếu-Tá Định giới thiệu tên và cấp bậc từng người: "Đại-Úy Lê Thanh Hồng Vân, Trưởng Phòng Hành-Quân Phi-Đoàn 514. Đại-Úy Trần Ngọc Hà, Phi-Tuần Trưởng Khu-Trục PĐ 514. Đại-Úy Nguyễn Văn Huynh, Phi-Tuần Trưởng Khu-Trục PĐ 514. Đại-Úy Vũ Công Hiệp, Phi-Tuần trưởng khu-Trục PĐ 514. Đại- Úy Phạm Văn Thặng, Phi-Tuần Trưởng Khu-Trục PĐ 514. Đại-Úy Hoàng Mạnh Dzũng, Phi-Tuần Trưởng Khu-Trục PĐ 514. Đại-Úy Vũ Văn Thanh, Phi-Tuần Trưởng Khu-Trục PĐ 514. Trung-Úy Trần Kim Long, Phi-Tuần Phó Khu-Trục PĐ 514. Trung-Úy Nguyễn Văn Hai, Phi-Tuần Viên Khu-Trục PĐ 514." Sau khi duyệt qua toán phi-công "Tây Tiến", Thiếu-Tá Định bước lui lại một bước hô to: "-Tất cả theo lệnh tôi...Nghiêm!" Rồi ông dõng dạc tuyên bố: "- Kể từ giờ phút này các bạn chính thức là nhân viên phi-hành của "Phi-Đoàn Thái-Dương 530" trực thuộc Không-Đoàn 72CT đồn trú tại PleiKu." Chín cánh tay cùng giơ lên chào lại vị Phi-Đoàn-Trưởng mới của mình, và như để cho ông biết rằng họ sẵn sàng đặt mình dưới quyền chỉ huy của ông.

Nghi lễ trình diện đã xong. Anh em phi-đạo cùng mọi người chạy lại vây quanh chúng tôi, hết lời khen ngợi màn phi diễn bất ngờ, đẹp mắt và hùng tráng vừa rồi. Phi-trường PleiKu sáng nay như bừng lên bầu không khí của một ngày hội. Trung-Tá Bá với tay mở chai rượu champagne rót ra những chiếc ly nhỏ mời chúng tôi. Đón ly rượu trên tay ông, tôi có cảm tưởng như mình đang đón nhận ly rượu Saké của Nhật Hoàng ngày nào ban cho các "Phi- Công Thần Phong" trước khi họ lao mình vào cõi chết...Mặc dù chúng tôi lên đây không phải là để tự sát, mà là để bảo vệ cho vùng đất nơi chốn biên cương quan tái này. Tôi cũng biết rằng rồi đây trong số chúng tôi, sẽ có những người ra đi không trở lại, nhưng chúng tôi chấp nhận điều đó, và coi đó như là một vinh dự của những người lính chiến được hy sinh cho đại cuộc...Nhìn các bạn tôi đang say sưa ngụp lặn trong bầu không khí đầm ấm và thân mật của tình đồng đội nơi vùng đất mới. Tôi thật sự cảm động. Ngày hôm nay, ngày 15 tháng 11 năm 1970, cái mốc thời gian ghi nhận một sự kiện quan trọng là "Phi-Tuần Tây Tiến" đã hạ cánh đúng giờ TOT trong một khung cảnh trang nghiêm và đầy ắp tình người.

PleiKu như cũng chiều theo lòng người, vì vào mùa này, vùng đất Tây Nguyên rất hiếm thấy một cảnh trời quang mây tạnh như sáng hôm nay. Sau này chúng tôi được biết chính Thiếu-Tá Định là người đã bấm lá số tử-vi chọn ngày và giờ đáp cho toán nhân viên đầu tiên của phi-đoàn lên đáo nhậm PleiKu. Tuy không thể so sánh với những bậc tiền bối được chân truyền về môn "Thái Ất Thần Kinh" như Nguyễn Bỉnh Khiêm hoặc La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp, nhưng ông cũng là một cao thủ về môn "độn số", và có một sự hiểu biết sâu rộng về môn học đã thất truyền này. Điều bất ngờ và thú vị nhất đối với tôi là khi Thiếu-Tá Định và Trung-Tá Bá đến trước mặt tôi nâng cao ly rượu và nói: "- Chúc mừng chú rể mới của Phi-Đoàn Thái-Dương 530. Lần sau nhớ dẫn cô dâu lên trình diện anh em đó nghe." Tôi với ông Định vốn đã quen nhau qua thơ văn từ trước, nhưng hôm nay tôi phải giữ đúng lễ nghi quân cách với ông sếp mới này. Tôi đứng nghiêm nói: " - Xin tuân lệnh Thiếu Tá." Ông Bá Chủ tươi cười nói: " - Tuy được tin trễ nhưng Không-Đoàn cũng có món qùa nhỏ gởi cô dâu và chú rể. Đây là tờ sự vụ lệnh 15 ngày phép. Tôi đã cắt một phi-vụ liên-lạc PleiKu - SàiGòn bằng U17 đưa chú về SàiGòn sáng nay..." Nghe ông nói tôi cảm động đến sững sờ, không phải vì 15 ngày phép, mà là cử chỉ chăm sóc kín đáo, thân mật, và tế nhị của một vị chỉ huy đối với thuộc cấp. Tôi liếc nhìn qua Lê Thanh Hồng Vân, thấy anh nhìn tôi nheo mắt cười rồi ngửa cổ uống cạn ly rượu mừng...

Kể từ ngày Không-Đoàn 72CT được thành lập với những đơn vị cơ bản như Quan-Sát, Trực-Thăng, Khu-Trục và Kỹ-Thuật đủ để đáp ứng cho những nhu cầu yểm trợ các đơn vị hành quân trên chiến trường Quân khu 2, thì Phi-Trường Cù-Hanh nhộn nhịp hẳn lên. PleiKu vui mừng hớn hở đón nhận "Anh Hùng Hào Kiệt" các nơi đổ về. Từ những con "chiến mã bất kham" đã từng ngược xuôi khắp 4 vùng chiến thuật, đến những khuôn mặt thư sinh non trẻ với ánh mắt và nụ cười còn bỡ ngỡ, bước chân ngập ngừng đi theo dòng sinh-mệnh của dân-tộc. Nhưng dù ở vị thế nào đi chăng nữa, thì tất cả đều gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề chung của những người trai thời loạn...Bầu trời PleiKu ngày đêm vang dội những tiếng gầm rú của phi-cơ các loại qua những phi-vụ hành-quân và huấn-luyện. Nhưng theo với đà tăng trưởng của đơn vị thì nhịp độ pháo kích của địch vào phi trường cũng tăng theo...

...Một buổi sáng sau khi giải trình phi vụ "xác định hành-quân phi-tuần phó" cho Trung-Úy Hai xong, tôi rủ anh về câu lạc bộ để ăn sáng. Khi đi ngang qua trạm tiếp liên, tôi thấy 2 người lính đang ì ạch vác hai chiếc ba-lô trên vai. Thấy chúng tôi đi tới, hai người vội để ba-lô xuống rồi đứng nghiêm chào. Nhìn bộ quân phục và đôi giầy mới toanh chưa mòn gót của các anh, chúng tôi biết là hai người vừa tốt nghiệp từ một khóa huấn-luyện nào đó và được thuyên chuyển lên đây. Chúng tôi vui vẻ hỏi thăm các anh và đề nghị khiêng phụ hai anh gói hành trang đầu đời của người lính về cư xá. Đang đi trên đường thì một tiếng rít xé gió vụt qua đầu chúng tôi, rồi một tiếng nổ bùng lên từ cuối phi đạo. Cả bốn chúng tôi đều quăng ba-lô xuống đất rồi lăn mình theo lề đường. Hai người bạn trẻ lăn vào một cái hố bên cạnh. Tôi và Hai tiếp tục lăn xuống cuối thung lũng. Một tiếng nổ thứ hai dội lên, tôi có cảm tưởng như lồng ngực mình bị bung ra. Tôi vòng tay ôm lấy đầu để che đỡ. Sỏi đất rào rào rớt xuống phủ lên khắp thân mình tôi. Một cảm giác lành lạnh trên gáy như có những mảnh bùn ướt bám vào. Sờ lên tôi thấy tay mình bê bết máu. Tôi hoảng hồn tưởng mình bị thương, nhưng sau khi kiểm soát lại tay chân mình mẩy thấy không có gì tôi mới yên tâm nằm im chờ đợi. Khi nghe thấy tiếng Trực Thăng võ trang và Khu Trục vần vũ trên bầu trời, chúng tôi lồm cồm đứng dậy...Một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt tôi và Hai. Chiếc hố tránh pháo kích giờ đây đã trở thành chiếc bẫy của tử thần lãnh nguyên một trái hỏa tiễn 122 ly cầy tung sỏi đất. Hai người bạn trẻ vừa cùng chúng tôi sánh bước trên đường giờ đây đã biến mất. Nhìn vào lòng hố chúng tôi chỉ còn thấy 4 chiếc giầy nhà binh lẫn lộn máu với mớ thịt vụn nhầy nhụa...Tôi và Hai đứng chết trân như trời trồng nhìn nhau mà không nói lên được lời nào. Một cảm giác rờn rợn chạy luồn qua cơ thể khi một ý nghĩ thoáng hiện ra trong đầu tôi là nếu chiếc hố đủ chỗ cho 4 người...Tuy đã nhiều lần nằm hứng chịu những trận pháo kích, và cất cánh dưới làn mưa pháo của địch, nhưng chưa lần nào tôi thấy khủng khiếp như lần này, khi đối diện trước cái chết của hai người lính trẻ vừa nhập cuộc, chưa được dịp thi thố tài năng đã vội vã ra đi...Dù rằng trong cuộc chiến có nhiều những cái chết khác nhau, nhưng cái chết nào của người lính cũng là một biểu tượng của sự hy sinh và bảo vệ...Máu của hai người lính trẻ vừa đổ ra để cho đồng đội của các anh và vùng đất bất hạnh này được bình an trong lửa đạn...Xin được một lần đứng nghiêm giơ tay chào vĩnh biệt các anh. Kể từ nay các anh sẽ nằm yên nghỉ ngàn đời trong trang quân-sử bi hùng của dân-tộc.

...Rồi buổi chiều nay ở một nơi chốn nào đó trên vùng đất của quê hương, trong bữa cơm gia đình, sẽ có những khuôn mặt bàng hoàng cùng những ánh mắt lạc thần của người thân các anh khi nghe tin chiến sự...Và đêm về sẽ có những tiếng thổn thức thầm lặng của con tim rung lên theo với hạt mưa rơi... Thầm lặng mà sao nghe vang dội cả bầu trời tang tóc...

Đêm Cao Nguyên bập bùng ánh lửa!

.....Suốt cả tuần qua, phi trường PleiKu nhạt nhòa trong màn mưa phùn và những cơn gió lạnh từ dẫy Trường Sơn thổi về. Lợi dụng những lúc thời tiết xấu, các phi vụ hành quân và huấn luyện đều phải hủy bỏ. Anh em trong phi đoàn xoay ra làm "phi tác" tân trang đơn vị. Mặc dù chỉ là những tay “thợ tài tử” và “thợ vịn”, nhưng nhờ có sự đôn đốc, và góp sức tận tình của hai ông thần “Hộ Pháp” Vũ Công Hiệp và Phạm Văn Thặng, cùng với Nguyễn Văn Huynh, Phan Đắc Huề, Lê Quốc Đức, Nguyễn Hoàng Mai, Lê Thuận Lợi, Nguyễn Văn Hai, Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Tiến Thụy, và Trần Văn Phúc, nên cuối cùng mọi người cũng đã hoàn thành được một công trình "vĩ đại" của mình. Đặc biệt là chiếc cổng khổng lồ hình chữ A1 được dựng ngay cửa ra vào của phi đoàn trông thật gồ ghề và rất là “khu-trục”.

Hôm nay mưa đã tạnh, nhưng trên bầu trời vẫn còn những đám mây đen giăng mắc. Trên quãng đường từ phi đoàn 530 về cư xá, xe cộ chạy rầm rập lên xuống như đang có một chuyện gì quan trọng lắm sắp xẩy ra. Qủa thật là có chuyện quan trọng sắp xẩy ra tại cái căn cứ Không Quân đèo heo hút gió này...Bởi vì sáng nay khi Thiếu-Tá Lê Bá Định vừa bật đèn khai trương chiếc cổng A1 thì nhận được cú điện thoại đỏ từ văn phòng “Tham Mưu Trưởng” thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi ra báo là sẽ có một phái đoàn gồm những nhân vật quan trọng và cao cấp ghé thăm Phi Đoàn. Nhận được tin này, Thiếu-Tá Định vội báo ngay cho Trung-Tá Bá. Ông "Bá chủ" thấy tầm vóc của phái đoàn qúa lớn cũng không dám quyết định đơn phưong liền liên lạc với vị Không Đoàn Trưởng Yểm cứ PleiKu là Trung-Tá Võ Quế. Thế là cả căn cứ bừng lên bầu không khí nhộn nhịp và háo hức sửa soạn cuộc tiếp đón hiếm có này. Đúng 5:00 giờ chiều chiếc “Air Force Two” của KLVNCH đáp xuống phi đạo của phi trường Cù Hanh. Hành khách gồm có “Phó Tổng Thống VNCH”, Trung-Tướng Trần Văn Minh Tư-Lệnh KQ cùng với Đạ Tá Tần Tham-Mưu Phó Hành-Quân, Đại-Tá Khanh Tham-Mưu Phó An-Phi, và Tư-Lệnh Sư-Đoàn 5 KQ là “ông già đầu bạc” Đại-Tá Phan Phụng Tiên. Thiếu-Tá Định hướng dẫn phái đoàn đến thăm phi đoàn, tháp tùng theo có Trung-Tá Bá và Trung-Tá Võ Quế. Cuộc thăm viếng bất chợt không có lễ nghi quân cách, kèn trống nghênh tiếp, đã làm anh em vô cùng xúc động và hãnh diện. Thật ra thì đây không phải là một cuộc thăm viếng hay thị sát đơn vị bình thường của các vị chỉ huy cao cấp, mà họ đến đây là để "tiếp lửa" cho những người lính trẻ nơi chốn biên cương quan tái này. Bởi vì họ cũng chính là những bậc đàn anh, những người đi trước thuộc "thế hệ mầu tím hoa sim", những người đã từng quay cuồng trong bão lửa, một thời hứng trọn những nguy nan...Và nếu không phải là chính những người lính đã từng vào ra nơi chốn dầu sôi lửa bỏng thì không một ai có thể có một cái nhìn chân thực, cũng như cảm nhận được cuộc sống đầy bất trắc ở đó như thế nào. PleiKu qủa là một vùng đất đầy bất trắc, luôn luôn có những chuyện bất thường xẩy ra vào những giây phút mà không ai có thể ngờ tới...Như buổi chiều nay, trong lúc mọi người đang quây quần bên những chiếc lò sưởi dã chiến được làm bằng những thùng phuy xăng đặt ngoài trời, hơ tay trên ngọn lửa hồng trước khung cảnh hùng vĩ của vùng núi rừng Tây Nguyên:

“Sương đầu núi buổi chiều như dội” "Nước lòng khe nẻo suối còn sâu" "Não người áo giáp bấy lâu" "Nhẹ xem tính mạng như mầu cỏ cây." (*)

Cảnh vật hùng vĩ này được dùng làm bối cảnh cho những câu chuyện hùng tráng của những con người hào sảng đã từng tung hoành ngang dọc, kể cho những người “Nhẹ xem tính mạng như mầu cỏ cây”…Trong khi anh em đang im lặng thích thú nghe Tướng Kỳ kể lại những chuyến bay đêm nghẹt thở của “phi đội Cò Trắng” trên đất Bắc ngày nào cùng với những tên tuổi đã đi vào "huyền thoại" như: Lê Thanh Vân, Lưu Kim Cương, Nguyễn Ngọc Khoa, Nguyễn Văn Tâm...thì có những tiếng còi hụ vang lên, rồi một đoàn xe cứu hỏa và xe cứu thương chạy ra phi đạo. Từ xa về hướng Đông, một phi tuần hai chiếc phản lực đang trên đường cận tiến phi trường. Bằng những con mắt nhà nghề, mọi người nhận ra đó là hai chiếc F100 của Không Lực Hoa Kỳ. Chiếc đầu thả bánh đáp, chiếc thứ hai đeo sát bên cánh không ra "gears" chắc là bị bể ống thủy điều. Hai chiếc khu-trục phản lực đã tới đầu phi đạo 27, và đang ở cao độ thích hợp nhất để làm “crash”. Chiếc thứ nhất bỗng tách ra, phóng lên cao rồi làm một vòng quẹo thật gắt để quay đầu lại. Trong lúc chiếc thứ hai hạ cánh ngay trên lớp “foam” trắng xóa vừa được trải trên mặt sân bay. Mọi người hồi hộp theo dõi chiếc phi cơ lâm nạn lướt trên đám bột chống lửa như một chiếc xe trượt tuyết. Phi cơ ra khỏi đám bột “foam” và tiếp tục lướt tới với một tốc độ khá nhanh. Từ dưới bụng phi cơ những tia lửa xẹt ra như những tia pháo bông. Đoàn xe cứu hỏa hối hả phóng theo. Mọi người đều nín thở theo dõi chiếc phi cơ lâm nạn, và cầu mong sao cho phi cơ dừng lại kịp thời trước cuối đường bay, vì phi đạo của phi trường PleiKu thuộc loại sân ngắn, không thích hợp lắm để cho một khu-trục phản-lực có thể làm làm crash. Nhưng đã qúa trễ, chiếc phi cơ tiếp tục lướt tới đụng vào mô đất nơi cuối phi đạo và bùng cháy. Chiếc ghế thoát hiểm bung lên cao, nhưng dù chưa kịp mở thì đã rớt xuống ngay giữa đám cháy đang ngùn ngụt bốc lên như một bó đuốc khổng lồ thiêu sống người phi công can trường nhưng vắn số. Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều bàng hoàng đứng bất động, toàn thân như bị tê liệt trước cảnh tượng bi tráng xẩy ra trước mắt…Người phi công trên chiếc phi cơ đầu đã quay lại và bay sát mặt phi đạo, khi bay ngang qua đống lửa, chiếc F100 quằn quại lắc cánh làm một vòng “roll” 360 độ để chào vĩnh biệt người bạn đồng hành đang được hỏa táng ở bên dưới, rồi phóng vút lên cao, bỏ lại những tia lửa phụt ra từ ống phản lực thấp thoáng như những lằn sét lẩn khuất trong đám mây mù dầy đặc, cùng với những tiếng gầm rú bi phẫn của đất trời…Trên khuôn mặt phong sương của những người trai thời loạn hằn lên những nét đăm chiêu, xót thương cho một tráng sĩ cô đơn vừa vượt qua dòng sông định mệnh.

…Mây chiều từng cuộn đen nghịt đổ về phủ kín sân bay như để đưa tiễn người anh hùng bạc mệnh. Anh Phi Công phản lực F100 ơi! Anh đã vật lộn với tử thần để thoát ra khỏi vùng trời mịt mù lửa đạn; sao anh không tìm một nơi nào an toàn hơn để hạ cánh, mà lại chọn vùng đất nghiệt ngã này để chôn vùi thân bách chiến. Chẳng lẽ đây là sự lựa chọn của một “Đại Trượng Phu!” Một chọn lựa bi tráng mà các anh hùng vạn thủa đã làm qua những vần thơ: "Chí làm trai dậm nghìn da ngựa - Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao." * Anh Phi Công Khu Trục F100 ơi! Hôm nay chúng tôi đứng đây đưa tay chào vĩnh biệt anh, người bạn đồng minh vừa hy sinh cho đại cuộc. Chẳng biết rồi mai này tới lượt mình nằm xuống thì ai sẽ là người đến để tiễn đưa đây...Nhưng cuộc sống của những người Lính chiến là phải như thế; nó không cho phép một ai quay đầu lui bước, dù trước mặt có trập trùng muôn vàn những nguy-hiểm gian-nan…

Buổi chiều tang tóc ập đến thật nhanh và cũng qua đi thật nhanh, nhường chỗ cho màn đêm nặng nề chậm chạp buông xuống. Trong lúc mọi người đang đứng bên cạnh những chiếc lò than đỏ rực tỏa khói thơm phức, thưởng thức bữa tiệc thịt rừng với rượu cần do ông chủ đồn điền trà PleiKu khoản đãi, thì một chiếc C47 của KĐ53CT lừng lững taxi tới đậu ngay trước mặt hangar. Cửa phi cơ vừa mở ra, anh em đều trố mắt nhìn như không tin đây là sự thật. Từ trên phi cơ nhẩy xuống là ban nhạc Joe Marcel của phòng trà Queen Bee, mọi người lục tục khuân chuyển nhạc cụ xuống cùng với sự xuất hiện của ca sĩ Anh Khoa, và một số các cô “em gái hậu phương”, đặc biệt có sự hiện diện của kiều nữ Mai Dung nổi danh tài sắc của SàiGòn hoa lệ…Anh em vô cùng cảm động vì món qùa bất ngờ, đẹp và lãng mạn như thơ Quang Dũng: “Doanh trại bừng lên khúc nhạc ca – Kìa em xiêm áo tự bao giờ.” của phái đoàn gởi đến những người “Lính” chiến nơi vùng trời biên trấn. Rồi thì tiếng trống, tiếng đàn giọng hát nổi lên, cuốn theo những bước phong trần lả lướt của “chinh-nhân”, quấn lấy vòng tay mềm mại, nghiêng ngả bồng bềnh theo gót chân son “thục-nữ”, quyện vào với đêm cao nguyên huyền ảo mịt mù sương khói tỏa.

Cuộc gặp gỡ không hẹn trước của những hào-kiệt và giai-nhân đêm nay bùng lên như một trận bão lốc, xoáy vào lòng người theo với cơn gió lạnh của rừng khuya...

Các anh lính chiến Không-Quân của KĐ Biên trấn ơi! Hãy vui đi cho trọn đêm nay, bởi vì khi sớm mai thức dậy, và khi vầng Thái-Dương vừa ló dạng, thì những tiếng cười ròn rã cùng những ánh mắt liêu trai kia cũng sẽ biến mất như đám sương mù đọng nơi đầu phi-đạo. Có chăng còn lại chỉ là những hình ảnh nhạt nhòa trong tâm tưởng... Cuộc sống của con người trong thời ly loạn, dù là tiền tuyến hay hậu phương, thì ở đâu cũng bồng bềnh như những đám lục bình miệt mài trôi theo dòng nước, có bao giờ nó dừng lại ở một nơi chốn nào đâu.

Buổi Phi Diễn!

Để ra mắt và giới thiệu hỏa lực của Không Đoàn 72CT với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, cùng các đơn vị tác chiến đồn trú tại Quân Khu 2, và được sự chấp thuận của BTL Không Quân. Trung-Tá Bá triệu tập các đơn vị trưởng của KĐ72TC lại để soạn thảo một chương trình phi diễn gồm các màn thả khói mầu, oanh kích, đổ quân và đặc biệt là màn nhào lộn của khu trục. Khách mời gồm toàn bộ chỉ huy của Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 với Trung-Tướng Ngô Du cùng các cố vấn và các vị tư lệnh chiến trường của các binh chủng Biệt Động Quân, Nhẩy Dù và Bộ Binh từ cấp sư-đoàn đến cấp đại đội. Các Tiểu Khu Trưởng, và khách mời dân sự. Sau một tuần lễ tập dượt, hôm nay là ngày mọi người mong đợi. Chương trình được dự trù bắt đầu từ 10 giờ sáng nhưng mới 8 giờ mà cổng Phi-Vân của căn cứ Không-Quân PleiKu đã mở ra một quang cảnh tưng bừng và náo nhiệt. Quốc lộ 14 đông nghẹt những người và xe cộ từ các nơi đổ về phía phi trường. Những tà áo dài đủ mầu tung bay như cánh bướm, vờn theo bước chân của những đôi giầy đinh lấm bùn lầy đất đỏ, nói lên nét đặc thù của PleiKu phố núi.

Mục tiêu cho phần oanh kích và đổ quân là ngọn đồi thấp, nằm dưới thung lũng đối diện với phi đạo của phi trường. Những ngôi nhà tranh dùng làm điểm oanh kích đã được đoàn kiến tạo của KĐ Yểm Cứ PleiKu dựng lên, nằm phơi mình trên đỉnh đồi như thách thức khả năng của những người Lính chiến Không-Quân. Khoảng cách từ mục tiêu đến khán đài không qúa xa để khán gỉa có thể theo dõi các màn phi diễn một cách rõ ràng mà không phạm đến sự an toàn của mọi người.

Tại khán đài trung ương, một toán phi công được tuyển chọn từ các phi-đoàn Quan-Sát, Trực-Thăng và Khu-Trục do Thiếu-Úy Đinh Đức Bản làm trưởng toán, nhận trách nhiệm hướng dẫn và đưa đón quan khách. Những chàng phi công trẻ tuổi trong bộ đồ bay mầu xám, cặp lon Thiếu-Úy mới toanh gắn trên vai, cùng với đôi cánh bạc ngạo nghễ nằm trên ngực, và chiếc khăn quàng mầu “tím hoa sim” thắt chéo nơi cổ áo bay phất phơ theo gió, làm tăng thêm vẻ hào hùng và lãng mạn của người phi công thời chiến một cách kín đáo. Với một phong cách đầy vẻ tự tin, đôi mắt sáng quắc và nụ cười bặt thiệp nở trên môi, những người lính trẻ lịch sự nghiêng mình đưa tay dìu người đẹp lên khán đài. Nhìn những gương mặt thẹn thùng, đôi gò má ửng hồng và những bàn tay run rẩy của các "kiều nữ giai nhân", ngại ngùng đưa ra nắm lấy cánh tay rắn chắc của người trai khói lửa mà “Phượng Hoàng Rosa” Lê Như Hoàn đã gọi họ là những người Lính "Hào hùng trên không và hào hoa dưới đất", người ta không khỏi liên tưởng đến những câu thơ trong "Chinh Phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn: "Lương nhân nhị thập Ngô môn hào - Đầu bút nghiên hề sự cung đao" mà bà Đoàn Thị Điểm đã diễn Nôm ra là "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt - Xếp bút nghiên theo việc đao cung". Đúng vậy, phải là những trang “nam nhi hào kiệt” mới có cái phong độ hào sảng và lịch lãm như vậy được. Xướng ngôn viên chính chỉ huy toàn bộ chương trình và dẫn giải các chi tiết trong buổi phi diễn là Thiếu-Tá Lê Bá Định. Bằng một giọng nói trầm ấm, truyền cảm và lôi cuốn, người "xướng-ngôn-viên" tài hoa của KĐ72CT xử dụng cùng một lúc hai thứ ngôn ngữ Việt - Mỹ một cách lưu loát, nhịp nhàng và uyển chuyển, đã thu phục được cảm tình và lòng ngưỡng mộ của quan khách các giới đối với Quân-Chủng Không-Quân. Bốn chiếc loa được khuyếch đại với công xuất cao đặt ở 4 góc nơi khán đài, trực tiếp truyền thanh tất cả những cuộc liên-lạc vô-tuyến qua các tần-số FM, VHF, UHF trên trời và PRC25 dưới đất đến khán giả, làm cho bầu không khí ngày hội càng thêm phần sôi nổi và sống động. Phải nói đây là lần đầu tiên mọi người được nghe những lời đối thoại giữa các phi cơ với Đài kiểm-soát, Đài Kiểm-Báo và quân bạn một cách đầy đủ và rõ ràng như vậy. Ngay cả những vị chỉ huy ngoài mặt trận cũng chỉ được nghe một phần giới hạn trong phạm vi hoạt động của họ mà thôi. Tại khán đài trung ương, khán gỉa nhìn lên bầu trời xanh ngắt, thấy hiện ra cả một vùng không-lộ thênh thang chằng chịt những phi cơ đủ loại, từ Khu Trục, Quan Sát đến Trực Thăng bay lượn trên những độ cao khác nhau tại vòng chờ. Từ trên cao độ, Thiếu-Tá Lưu Đức Thanh, Liên Đoàn Phó LĐ72TC ngồi trên chiếc trực thăng "chỉ huy" (C&C) lấy danh hiệu là "Bạch Điêu", có nhiệm vụ điều hợp các đơn vị phi diễn giữ đúng vị trí và giờ "G" xuất phát từ điểm hẹn để tiến về khán đài....

...3 phút trước giờ khai mạc, tiếng nói của người phi tuần trưởng phi tuần thả khói mầu rổn rảng vang lên trên bầu trời truyền qua máy phóng thanh:

- "Bạch Điêu" đây "Thái-Dương Hồng" gọi. Xin báo cho Bạch Điêu biết là Chúng tôi bắt đầu rời vòng chờ để vào trục phi diễn theo hướng Tây - Đông.

- "Roger Thái-Dương Hồng" Bạch Điêu nghe bạn 5/5. Chúc bạn bay một phi vụ thật đẹp.

Tiếng người Phi Tuần Trưởng lại vang lên:

- Đài Kiểm soát PleiKu. Đây "Thái-Dương Hồng" gọi. chúng tôi đang vào trục phi diễn theo hướng Tây - Đông, cao độ 1,000 bộ.

- PleiKu đài nghe rõ. "Thái-Dương Hồng" bạn sẽ làm việc trên phi đạo 27, cao độ 1,000 bộ. Thời tiết phi trường PleiKu trời quang, gió lặng. Tầm nhìn xa 10 dậm. Sau khi thả khói xong, bạn giải tỏa về hướng Đông-Bắc, 30 độ "out bound" phi trường PleiKu. Chúc bạn nhiều may mắn.

Đúng 10:00 giờ sáng, Thiếu-Tá Lê Bá Định giới thiệu với quan khách màn phi diễn bắt đầu. Mọi người ngước mắt đổ dồn về phía đầu phi đạo 27, trong lúc một đoàn phi cơ 5 chiếc khu trục A1H bay theo đội hình chữ V ngược, ào ào lướt tới. Từ hai bên cánh của các phi cơ phun ra những cuộn khói mầu, kết thành lá cờ Vàng ba sọc Đỏ tuyệt đẹp. Tất cả mọi người trên khán đài đồng loạt đứng dậy vỗ tay một cách nồng nhiệt, trong lúc ban quân nhạc trổi lên bài "Không Quân Hành Khúc" của Văn Cao:

"Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến đấu
Ðã chiếm chiến công ngang trời
Giờ đoàn người còn vượt qua biên giới quyết chiến đấu
Ði không lo gì xác rơi
Lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi
Hối tiếc tấm thân làm chi

Giờ thề một lòng vượt trên lưng gió quyết chiến thắng
Nhớ lấy phút giây từ ly...

Ta là...đàn chim bay trên cao xanh
Khi nhìn...qua khói những kinh thành xa
Ðôi cánh...tung hoành vượt trên mây xanh
Ta là...tinh cầu bay trong đêm trăng

Ðây đó...hồn nước ơi !
Không quân Việt Nam vút trên ngàn mây gió
Ù..u…u… u… u… ú…
Ôi phi công...danh tiếng...muôn đời
Nhìn xa...phi trường Việt Nam
Không quân ra đi cánh bay rợp trời
Ù ..u… u… u… u… ú…
Xa giang sơn ngắm nhìn về khắp nơi

Bầy chim dù bay ngàn phương cũng về
Ðể rồi ngày ngày sống hòa nhịp đời
Cùng ngàn kiếp chim
Bầy ta càng đi càng xa
Quyết khi về đem lại đây chiến công
Dù thân mồ quên lấp chìm"

Lời nhạc hùng tráng vang dội quấn vào nhau theo gió bốc lên bầu trời xanh thẳm của buổi ban mai như một cơn lốc. Đâu đó trong đám đông, người ta bắt gặp những ánh mắt long lanh liếc nhanh về phía những "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt" đang đứng dưới khán đài.

Sau màn thả khói mầu là phần biểu diễn hỏa lực. Xướng ngôn viên của chương trình giới thiệu đến quan khách ba phi-tuần khu-trục trang bị Bom Nổ, Bom Lửa (Napalm), Hỏa Tiễn công phá, và Đại Bác 20ly. Các phi-tuần này sẽ đánh theo thế “liên hoàn” từ những cao độ khác nhau theo đúng quy luật An-Phi. Qua máy phóng thanh mọi người được nghe những mẩu đàm thoại giữa Khu-Trục và Quan-Sát:

- “Black Cat” đây "Thái-Dương Đỏ" gọi bạn nghe rõ không trả lời.

- “Thái-Dương Đỏ” “Black Cat” nghe bạn 5/5, chúng tôi đang ở hướng 9:00 giờ của bạn. Xin bạn cho biết trang bị.

- Roger “Black Cat!” “Thái-Dương Đỏ” gồm 2 phi cơ A1, trang bị bom nổ 500 cân. Chúng tôi đang ở cao độ 5,000 bộ.

- Roger “Thái-Dương Đỏ!” Chúng tôi sẽ cho bạn một trái khói trắng.

Chiếc phi cơ quan-sát bay đảo một vòng trên mục tiêu rồi nghiêng cánh chúi đầu xuống bắn ra một trái khói mầu trắng cùng với lời hướng dẫn:

- “Thái-Dương Đỏ” bạn đánh về bên phải của trái khói 50 thước.

- “Black Cat!” “Thái-Dương Đỏ” hiểu. 50 thước về bên phải của trái khói.

Từ trên cao độ, phi tuần “Thái-Dương Đỏ” đã vào vòng oanh kích. Chiếc phi cơ đầu nghiêng cánh rồi chúi xuống ở một góc độ gần như thẳng đứng theo với trục thả bom. Chiếc số hai lao xuống theo cùng một góc độ. 8 trái bom 500 cân rời khỏi hai chiếc khu-trục cơ, vun vút lao xuống mục tiêu như những mẫu vẩn thạch từ không gian vừa lọt bầu khí quyển. Một cột khói bùng lên cùng với ngọn lửa cuồn cuộn như ngọn hỏa diệm sơn trong cơn phẫn nộ chuyển mình, kèm theo tiếng nổ long trời lở đất làm rung chuyển cả núi rừng. Tiếng nổ qúa lớn của 4,000 cân thuốc nổ, gây một sức ép nặng nề trong bầu không khí làm mọi người cảm thấy ngộp thở. Quan khách ngồi trên khán đài lao xao. Đã có nhiều người nhốn nháo đứng dậy như sợ khán đài bị xập…Nhưng lời giải thích trầm ấm của người dẫn giải chương trình qua máy phóng thanh đã kịp thời trấn an mọi người. Trong lúc chiếc L19 đang đảo quanh một vòng trên mục tiêu rồi phóng xuống một trái khói mầu vàng thì trên máy phóng thanh lại vang lên tiếng gọi của phi tuần “Thái-Dương Xám”:

- “Black Cat” đây “Thái-Dương Xám” Gồm 2 phi cơ. Trang bị đại-bác 20ly và hỏa-tiễn công phá. Chúng tôi hiện đang ở trên mục tiêu, cao độ 1500 bộ. Chúng tôi đã thấy trái khói của bạn.

- Roger “Thái-Dương Xám”. Từ trái khói, bạn đánh dọc theo hướng Đông – Tây 200 thước.

- Roger “Thái-Dương Xám” hiểu. Chúng tôi sẽ vào trục xạ kích theo hướng Đông của trái khói.

Tiếng nói vừa dứt thì người ta đã thấy hai chiếc phi cơ từ xa phóng tới. Từng tràng Đại-Bác 20ly và Hỏa-Tiễn công phá trên phi cơ được phóng ra nổ ầm ầm như tiếng sấm đầu mùa mưa, vạch lên những luồng đạn đạo cầy nát ngọn đồi. Mặt đất oằn lên như đang chịu đựng một cơn địa chấn. Âm thanh của những tiếng nổ còn vang vọng chưa dứt thì từ hướng Bắc, hai chiếc A1H của phi tuần “Thái-Dương Vàng” bay sát mặt đất lao tới. 12 trái Napalms rời khỏi cánh phi cơ bung ra như một tấm lụa hồng khổng lồ phủ trùm lên mục tiêu. Hai chiếc phi cơ lướt qua nhanh rồi biến mất về phía chân trời. Bỏ lại mọi vật quằn quại trong biển lửa mịt mùng ở phía sau. Qua máy phóng thanh, tiếng của người phi công Quan-Sát háo hức reo lên:

- “Thái-Dương Vàng” đánh qúa đẹp. Mục tiêu đã bị phá hủy 100%.

Cuộc oanh kích của Khu Trục vừa dứt thì từ hướng Tây một hợp đoàn Trực Thăng gồm ba slicks và hai Trực Thăng võ trang hộ tống lừng lững bay tới. Khi đến mục tiêu, hai chiếc Gunships tách ra hai phía nã Mini Guns và Hỏa Tiễn xuống, làm một vòng đai lửa bảo vệ bãi đáp, trong lúc ba chiếc Slicks bay hover trên đầu mục tiêu và tung ra những cuộn thang giây. Từ trên phi cơ những người lính Biệt Kích nhanh nhẹn leo xuống, đong đưa theo từng nấc thang dưới sức thổi như vũ bão của những cánh quạt gió khổng lồ trên đầu, rồi nhẩy xuống lăn mình trên mặt đất một cách gọn gàng và biến mất sau lùm cây. 5 chiếc trực thăng đảo quanh mục tiêu một vòng rồi tập họp thành hợp đoàn rời vùng.

Tại khán đài trung ương, xướng-ngôn-viên điều khiển chương trình giới thiệu với quan khách màn biểu diễn nhào lộn của khu trục. Mọi người ngửa mặt nhìn lên vòm trời cao xanh thẳm, theo dõi một chấm đen đang bay lượn trên không, rồi bất thần cắm đầu thẳng đứng, lao xuống mặt phi đạo làm một vòng “Loop”. Bốn ống khói trắng gắn trên cánh phi cơ phun ra theo đường bay, vạch thành một vòng tròn tuyệt hảo, treo lơ lửng trên sân bay ở cao độ 700 bộ. Mọi người còn đang thích thú theo dõi màn nhào lộn đẹp mắt thì từ phía sau khán đài, một chiếc phi cơ khác lướt tới như một mũi tên xé gió, làm một vòng quay 4 điểm xuyên qua vòng tròn khói trắng, nhả ra những cuộn khói mầu đỏ, quấn theo thân phi cơ trông như một con rồng đang phun lửa…Từ máy phóng thanh Thiếu-Tá Định hãnh diện giới thiệu đến quan khách hai phi công bay biểu diễn: Đại-Úy Phạm văn Thặng và Đại-Úy Vũ Văn Thanh, thuộc phi đoàn Thái-Dương 530. (3) Khán gỉa đồng loạt đứng lên cùng với tiếng vỗ tay tán thưởng vang dội, át cả tiếng nói của xướng ngôn viên dẫn gỉải chương trình.

Sau màn phi diễn, quan khách được mời đến bãi đậu A1 để xem phần triển lãm phi cơ cùng các lọai vũ khí trang bị. Trước những ụ đậu được đắp bằng những bao cát chống pháo kích, những chiếc khu trục lầm lỳ nằm phơi mình trong ánh nắng mai, bên cạnh chiếc L19 mảnh mai e lệ như một cô gái đang tuổi xuân thì, lẫn với những chiếc trực thăng gồ ghề gánh dàn cánh quạt khổng lồ trên lưng. Số lượng bom đạn được trưng bầy trên sân bay, trước mặt từng loại phi cơ. Tất cả như đang chờ đợi những người khách hậu phương đến thăm để chia sẻ tâm tình sau những chuyến bay trở về từ nơi chiến trận…Những "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt" thuộc các phi đoàn lại được dịp hướng dẫn những kiều nữ giai nhân leo lên chiếc phi cơ mình vẫn bay hàng ngày để quan sát...Trong lúc người "em gái hậu phương" đang chóng mặt với dàn đồng hồ chi chít gắn trên bảng phi cụ, thì bên tai nàng giọng nói của “ông Thiếu-Úy phi công khu trục” cất lên như gió thoảng: “Đây là đồng hồ chỉ tốc độ. Đây là những đồng hồ định phương vị phi cơ và đây là cao độ kế, đồng hồ xăng, đồng hồ chỉ áp lực thuỷ điều, đồng hồ chỉ gia tốc vòng quay cánh quạt, đồng hồ chỉ áp lực chống lại sức hút của qủa đất (G. Force)…Còn đây là cần lái với những nút bấm thả bom, cò bắn Đại Bác và hỏa tiễn, đây là nút điều chỉnh độ thăng bằng cho phi cơ, nút liên lạc vô tuyến, và quan trọng nhất là cần chốt kéo ghế thoát hiểm ở dưới chân ghế ngồi, cần chốt này sẽ giúp phi công nhẩy dù thoát hiểm trong trường hợp phi cơ bị nạn…Tất cả những phi cụ này đều được đặt dưới sự điều khiển và kiểm soát của người phi công. " Không gian cũng như biển cả, sẽ không tha thứ một lỗi lầm nào dù là nhỏ nhất của con người.” (2) Khi lời giải thích của người phi công trẻ vừa dứt, thì cô nữ sinh cũng thấy mình như vừa thoát ra khỏi vòng “bát quái trận đồ” trong phòng lái của chiếc khu trục cơ sặc mùi bom đạn, nàng đưa tay vuốt nhẹ mái tóc mây rối bời tung bay theo gió, lấy lại bình tĩnh rồi nghiêng đầu nhí nhảnh hỏi:

- Thiếu-Úy ơi! Nếu khi thả bom mà…phi cơ bị phòng không bắn cháy thì mình…phải làm sao hả Thiếu-Úy?

Ông Thiếu-Úy phi công khu trục mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt cô nữ sinh lý lắc, dí dỏm trả lời:

- Thì…người phi công sẽ bung dù thoát hiểm trở về, để không phụ lòng mong đợi của người ở nhà.

Gương mặt cô gái hồng lên qua câu trả lời bóng gió của ông Thiếu-Úy.

Ông Thiếu-Úy ngừng lại một giây rồi chùng giọng nói tiếp:

- Nhưng đôi khi người phi công phải chấp nhận hy sinh thân mình để đổi lấy sự an toàn và chiến thắng cho đồng bạn.

Câu nói như mũi giao nhọn xoáy vào tim người nghe. Cô nữ sinh cúi đầu chớp mắt, cảm thấy lòng mình hụt hẫng, xót xa…

Cuộc vui nào cũng chóng tàn. Buổi phi diễn đầy những hình ảnh hào hùng và sống động, rồi cũng được thay bằng những cánh tay đưa lên vẫy chào tạm biệt, cùng với những tia mắt nhìn có đuôi ném lại phía sau, như để thầm hẹn thêm một lần gặp gỡ cho mai sau...Mọi người hân hoan ra về, mang theo trong lòng hình ảnh khó quên của ngày đại hội.

Vào cơn bão loạn!

Sau lần phi diễn, KĐ72CT đã chứng tỏ khả năng vững mạnh của mình trong công cuộc yểm trợ quân bạn và bảo vệ vùng trời biên trấn. Để mỗi khi màn đêm buông xuống, phủ trùm lên cả một vùng núi đồi trùng điệp, thì người dân PleiKu sẽ cảm thấy yên lòng hơn khi nhìn thấy ánh lửa lập lòe từ những chiếc phi cơ võ trang bay tuần phòng không phận. Những người lính chiến KQ đang ngày đêm sát cánh cùng các đơn vị bạn giữ gìn an ninh bờ cõi…Nhưng cuộc sống của người Lính trong thời ly loạn, luôn luôn biến đổi không ngừng như những điệp khúc bi hùng trong bản trường ca bất tận của dân tộc…Nếu nơi đây đã có nhiều người nhận PleiKu là miền quê ngoại, thì cũng có những người đã phải mang theo cả khối tình không trọn xuống tuyền đài. Có những người thản nhiên ra vào nơi chốn phòng không trập trùng của địch, thì cũng có những người phải trầm mình trong biển lửa mịt mùng. Cũng có người bung dù thoát ra khỏi chiếc phi cơ bốc cháy trên vòm trời lửa đạn, bỏ lại người phi tuần viên cô đơn lang thang lạc lõng giữa bầu trời hoang lạnh, và cũng có biết bao người trở về với cõi lòng tan nát, vì đã phải bỏ lại người những người bạn đồng hành của mình nơi chiến địa…

Tháng Ba năm 1972, cuộc chiến bùng lên dữ dội. Khói lửa tràn về KonTum, PleiKu, Phú Bổn...Những cánh phượng hồng rũ rượi tả tơi bay. Người dân tất bật di tản, bỏ lại Phố Núi cho những người Lính chiến của QLVNCH…KĐ72CT cùng với các đơn vị Nhẩy Dù, Biệt Động Quân, Bộ Binh quay cuồng trong cơn bão loạn, vung tay điểm lên bức tranh sơn hà những đường nét bi tráng, treo lơ lửng giữa trời cho ngàn sau chiêm ngưỡng. An ninh trật tự được vãn hồi, mọi người lại lục tục trở về như lời nguyền của dòng sông oan nghiệt…Sau lần chiến thắng lẫy lừng của toàn quân trong cuộc chiến của mùa Hè năm ấy, Trung Tá Định lên thay Đại Tá Bá được thuyên chuyển về coi căn cứ KQ Phan Rang. Sư Đoàn 6KQ ra đời dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, nâng cấp số của Quân Chủng Không Quân lên 6 Sư Đoàn. PleiKu trở thành nơi đồn trú của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 6KQ, bao gồm cả căn cứ 60 Chiến Thuật tại Phù Cát, trấn yểm vùng trời Tây Nguyên và vùng biển. Cũng trong thời gian này Trung Tá Lê Văn Bút lên thay Trung Tá Định được điều về coi trường phi hành T41. Trung Tá Mười lên làm Không Đoàn Phó KĐ72CT, trao lại Phi Đoàn Thái-Dương 530 cho Thiếu Tá Bạch Diễm Sơn.

Kể từ mùa Xuân năm 1973, cuộc chiến đã xoay chiều…Người ta bắt đầu nói đến những chuyện trao đổi tù binh, rút quân và đàm phán…Sư Đoàn 6KQ hân hoan đón chào những chiến hữu thân yêu trở về từ lòng đất địch như Trần Thanh Long, Nguyễn Đình Xanh...Nhưng đàng sau cái bẫy vô hình này, thì những người Lính của QLVNCH vẫn phải cô đơn đối đầu với lửa đạn trập trùng, và những mưu mô xảo quyệt của cả bạn lẫn thù. Tôi rời PleiKu trong cái bối cảnh giao thời qua những trang quân sử oai hùng cuối cùng của cuộc chiến…

Giã Từ Nơi Gió Cát!

Thế là sau 4 năm "trấn thủ lưu đồn", cuối cùng rồi tôi cũng phải rời vùng đất quanh năm với những cơn gió núi mưa rừng này, để thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh KQ ở SaìGòn. Còn nhớ ngày nào vào một buổi sáng mùa Đông năm 1970, chúng tôi 9 người của "phi tuần Tây Tiến" từ Biên Hòa bay lên đáp PleiKu để cùng anh em thành lập đơn vị mới, "Phi Đoàn Thái Dương 530", dưới quyền của Phi-Đoàn-Trưởng Lê Bá Định, trực thuộc Không Đoàn tân lập 72CT do Trung Tá Bá chỉ huy. Rồi từ đó theo với dòng thời gian trôi qua, đã có biết bao nhiêu những kỷ niệm vui buồn hằn sâu trên vầng trán phong sương của những người trai khói lửa....Những ngày tháng sát cánh bên đồng đội, cùng quay cuồng trong bom đạn trập trùng, vật lộn với tử thần ngoàì chiến trận. Đã bao lần được làm quen với những người bạn mới qua tần số trên vùng trời mịt mù sương khói, và cũng đã bao lần đón nhận hung tin của những người bạn đã hy sinh...Trong số 9 người của đoàn quân Tây Tiến năm xưa, thì đã có 2 người vỗ cánh tung bay về phương trời khác. Hai người đã vĩnh viễn nằm yên trong lòng đất Mẹ, và bây giờ đến lượt tôi cũng lại quay lưng với PleiKu để đi theo dòng định mệnh riêng của đời mình, bỏ lại Vũ Công Hiệp, Hoàng Mạnh Dzũng, Trần Kim Long, Nguyễn Văn Hai với những tháng ngày còn lại lang thang cùng gió núi mây ngàn nơi vùng trời biên trấn...Ngày chúng tôi mới đến, căn cứ PleiKu mới chỉ có 2 KĐ đồn trú. Nay thì PleiKu đã trở thành đại-bản-doanh của một Sư-Đoàn Không-Quân bề thế, Sư-Đoàn 6KQ.

Nhìn tờ sự vụ lệnh thuyên trên mặt bàn, tôi thẫn thờ xếp mấy bộ đồ bay, cùng vài bộ đồ dân sự, và một ít vật dụng cá nhân vào chiếc túi sách tay phi hành, gấp tờ SVL đút vào túi áo, rồi nhìn lại căn phòng một lần chót mà thấy bồi hồi xúc động. Vì chính tại nơi này đã bao lần tôi phải cúi đầu ngậm ngùi thương tiếc cho những người bạn đã hy sinh, và cũng đã bao lần đón mừng những người trở về từ cõi chết. Tôi bước ra khỏi căn phòng chứa đầy kỷ niệm đó, rồi đi trên con đường hàng ngày tôi vẫn đi để ra trạm tiếp liên. Dọc theo hai bên đường, từng lùm cây bụi cỏ, từng khóm dã quỳ hoang dại lao xao vươn lên trong ánh nắng sớm mai, tất cả dường như muốn nói với tôi một điều gì...Khi đi ngang qua chiếc miếu nhỏ dưới con dốc bên lề đường, chân tôi như muốn khụyu xuống...Tôi nhớ lại một buổi sáng mùa Đông cách đây 4 năm, tôi và Hai đã chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng trước cái chết bi thảm của hai người lính trẻ...Nhìn xuống bãi đất trống bên trái, nơi mà ngày xưa chúng tôi đã quây quần bên ngọn lửa bập bùng vào một đêm trăng mờ huyền ảo, trong cái lạnh buốt của núi rừng, cùng nắm tay nhau say sưa cất cao giọng hát: "Xin nhận nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương - Xin nhận nơi này làm quê hương dẫu cho điêu tàn - Khi mùa mưa về bùn lang thang lấm trên gót chân." Vậy mà ngày hôm nay chính tôi cũng lại là người bỏ vùng đất này để ra đi. Một cơn gió lạnh bốc lên từ bãi đất trống dưới thung lũng quấn lấy tôi như vòng tay của ai đó choàng qua vai níu kéo tôi lại. Tôi rùng mình kéo cao cổ áo, và chợt nhớ đến hai câu thơ của một nhà thơ nào đó, hình như Chế Lan Viên thì phải, người đã từng tâm sự từ một vùng đất ông ở: "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn." Đúng vậy, còn nhớ ngày nào tôi đến, PleiKu chỉ lặng lẽ nằm yên mỉm cười chào đón. Bởi vì PleiKu biết rằng tôi đến đây và sẽ ở lại đây với PleiKu. Bây giờ tôi đi, PleiKu vùng dậy, giận hờn trách móc tiễn đưa. PleiKu đưa tôi đi và PleiKu nhắn với tôi rằng PleiKu sẽ đợi sẽ chờ: "Anh đi rồi PleiKu gầy guộc nhớ - Đồi Cù Hanh sương khói phủ lê thê - Bao nhiêu chiều con đường xưa vẫn đợi - Từng mùa mưa lầy lội lối đi về." Rồi mai này chẳng biết đến mùa mưa nào thì ly khách sẽ trở lại với PleiKu đây...Tâm tình này tôi nghe mà sao thấy quen quen. Hình như tôi đã được nghe những lời nhắn nhủ như thế ở đâu đó rồi thì phải. Ồ đúng rồi, trong "Tha La Xóm Đạo", Vũ Anh Khanh ngày xưa cũng đã chẳng từng một lần được nghe Tha La nhắn nhủ qua những lời lẽ tha thiết đó sao:

"Giờ khách đi Tha La nhắn câu này"
"Khi hết giặc khách hãy về thăm nhé"
"Hãy về thăm xóm đạo"
"Có trái ngọt cây lành"
"Tha La dâng ngàn hoa gạo"
"Và suối mát rừng xanh"
“Xem đám chiên lành thương áo trắng”
“Nghe trời trở gió nhớ quanh quanh” (3)

Tha La xóm đạo với PleiKu, hai phương trời khác biệt. Tuy không cùng chung một khoảng thời gian và một mảnh không gian, nhưng hồn đất của PleiKu và của Tha La thì từ ngàn xưa cho tới ngàn sau bao giờ cũng vậy, bao giờ cũng tha thiết, ngậm ngùi day dứt khôn nguôi...

Chiếc C130 vừa đáp xuống phi đạo và đang di chuyển vào bãi đậu trước cửa trạm tiếp liên. Tôi đưa tờ sự vụ lệnh thuyên chuyển cho người trưởng trạm để anh ghi tên tôi vào danh sách những hành khách về SàiGòn, rồi mượn điện thoại gọi về đài kiểm soát để nói lời từ gĩa với những người bạn chưa từng một lần gặp mặt, mà chỉ biết nhau qua tần số vô tuyến. Một giọng nói quen thuộc vang lên bên kia đầu giây: "Có phải "hai lần tư tưởng Hồng Hà", người phi công trong "phi tuần Tây tiến" năm xưa đó không. Tôi chắc Hồng Hà không nhận ra tôi đâu. Tôi là người đã gởi lời "Welcome Home" đến mọi người trong phi tuần, và hôm nay xin được gởi lời chúc "Hồng Hà" thượng lộ bình an. Xin hẹn một ngày gặp lại." Nghe giọng nói của người kiểm thính viên, giọng nói trầm ấm quyện theo với luồng tình cảm nồng nàn của Người PleiKu. Tôi hụt hẫng, sững sờ cảm động đến nghẹn lời, vì không ngờ đã 4 năm qua rồi mà vẫn còn có người nhớ đến "Phi Tuần Tây Tiến...

Tôi theo đoàn người ra bãi đậu để lên máy bay. Gặp Phan Đình Hùng là trưởng phi cơ, anh kéo tôi lên phòng lái ngồi chung với phi hành đoàn. Phi cơ quay đầu chậm chạp lăn bánh trên từng thước đất thân yêu, rồi dừng lại nơi đầu phi đạo chờ "clearance" của đài kiểm soát...Trưởng phi cơ đẩy cần gia tốc của bốn động cơ lên vị thế cất cánh, rồi nhả chân thắng, chiếc C130 quằn quại rung chuyển, gầm lên như tiếng gầm bi thiết của con mãnh hổ lìa đàn, lao về phía trước, bốc mình rời khỏi phi đạo, bỏ lại hình ảnh nhạt nhòa của phi trường Cù Hanh bên dưới mờ dần theo ánh mắt người đi...Trong lúc phi cơ lên cao độ, từ phòng lái của chiếc C130, tôi thấy những cụm mây trắng lướt nhanh qua khung cửa kính, mà tưởng như là những tà áo dài mềm mại tung bay trong gió của “Người PleiKu” đứng bên đường giơ tay vẫy chào đưa tiễn. Lòng tôi trùng xuống. Tôi thì thầm nói với PleiKu: "Xin được một lần vẫy tay chào PleiKu! Xin chào Tây Nguyên với những địa danh muôn đời trơ gan cùng tuế nguyệt. Chào Peacock, chào PleiKu Đài, chào những người Lính Kỹ Thuật và Phòng Thủ ngày đêm vùi đầu trong nhiệm vụ. Chào những con đường với cơn mưa phùn vương đầy bụi đỏ. Chào những tàng cây xanh đan bóng lá một buổi chiều nao đưa đón bước chân son. Xin chào phố xá thân thương, chào ánh đèn khuya hiu hắt nơi "Quán Biên Thùy" hằng đêm chao đảo theo cơn gió lạnh của núi rừng mịt mờ mịt sương khói. Chào Trần Cao Chánh, Nguyễn Văn Song, Quán, Phong, Cầu, Hậu, Bình, Xuân, Thủy, Vương Mộng Long...Những con cọp rằn của vùng núi rừng Tây Nguyên trùng điệp. Xin chào Thái-Dương "The Last Real Fighters", "xin chào Lạc-Long, Sơn-Dương, Thần-Tượng, Sao-Mai, Bắc Đẩu những người bạn đã hơn một lần chia sẻ nỗi nhọc nhằn, hiểm nguy trong cuộc chiến…Thôi nhé, xin chào tất cả..."

Phi cơ chui vào vùng mây mù dầy đặc, trưởng phi cơ thông báo mọi người thắt chặt dây an toàn, rồi làm IFR xuyên mây lên cao độ. Phi cơ ra khỏi mây, bình phi ở 25,000 bộ rồi thẳng đường bay về SàiGòn. Tôi thật sự đã rời xa PleiKu!

(...Và như những vần thơ cổ bi tráng trong đoạn kết của "Chinh phụ ngâm", sau những tháng năm dài mong đợi, người vợ trẻ ở nhà đã phải: "Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam - Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân." * Rồi một ngày nàng đón nhận tin vui của "người trai khói lửa" từ nơi gió cát hẹn sẽ trở về để cùng nhau: "Ngâm nga mong gởi chữ tình - Dường này âu hẳn tài lành trượng phu"*...Một buổi tối, trong mái ấm gia đình, có đôi vợ chồng trẻ sung sướng nhìn đứa con đầu lòng líu lo vui đùa trước mắt bố mẹ. Người vợ tựa vai chồng thả hồn theo với giọng ngâm hào sảng của chinh nhân:

"Ta hồ! Trượng phu đương như thị " *)

Trần Ngọc Nguyên Vũ

Chú Thích:

(1) Thơ Hữu Loan

(2) Câu châm ngôn này được khắc trên một tảng đá cao lớn dưới móng vuốt một con chim ưng đang xòe cánh, đặt ngay cổng ra vào của trường "Hải-Quân Phi-Hành Pensacola", Florida, Hoa Kỳ. Không phải để hù dọa, mà là để nhắc nhở những chàng sinh viên mới bước chân vào quân trường để tập làm quen với cuộc đời đi mây về gió là: 'Đằng sau những đám mây nõn nà như gót chân son của giai nhân kiều nữ, lững lờ trôi trên bầu trời xanh thẳm, và những cuộn sóng trào dâng vỗ vào thành tầu, bung ra những bọt nước trắng xóa trông như những đóa hoa biển kia là những lưỡi hái sắc bén của "Tử Thần" đang chờ đợi để lấy mạng sống của những chàng phi công và thủy thủ lãng mạn, đa tình...

(3) Thơ Vũ Anh Khanh

(*) Chinh phụ ngâm : "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn mở đầu bằng hai câu "Thiên địa phong trần - Hồng nhan đa truân" ... và đóng lại đoạn kết bằng câu: "Ta hồ! Trượng phu đương như thị."

(3) Trong số những phi công bay loại Khu Trục A1, rất ít người làm được vòng "Roll" 4 điểm mà không bị mất cao độ. Nguyễn Gia Tập, Phạm Văn Thặng, Vũ Văn Thanh và Tạ Thượng Tứ...là những người trong số rất ít đó. Thặng và Thanh đã bay về vùng trời miên viễn vào năm 1972. Nguyễn Gia Tập đã lấy máu mình để rửa trong dòng nước đục vào sáng ngày 30/4 năm 1975 tại tiền đình của BTLKQ. Tạ Thượng Tứ hiện cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ.