Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
- Home
- Quân Sử
- Khung Trời Cũ
- Hội Ngộ
- Sinh Hoạt
- Tản Mạn Văn Học
- Tạp Ghi
- Nhạc
- Sư Đoàn 6 Không Quân Hành Khúc
- Bài Ca Hội Ngộ Sư Đoàn 6 Không Quân
- Trần Duy Đức & Hạt Thơ Nẩy Chồi Nốt Nhạc
- Xưa Trên Đó (Võ Ý & Trần Duy Đức)
- Em Yêu Dấu (Hoàng Khai Nhan)
- Mùa Thu Paris (Cung Trầm Tưởng & Phạm Duy)
- Lê Thương & 70 Năm "Hòn Vọng Phu"
- Lệ Đá (Trần Trịnh & Hà Huyền Chi)
- Giai Thoại Về Nhạc Phẩm "Làng Tôi"
- Rơi Về Nhau (Trần Duy Đức & Diễm)
- Nhạc Thính Phòng (Hoàng Khai Nhan)
- Văn
- Thơ
- About
Wednesday, April 5, 2017
Trận Phan Rang
Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
Sunday, September 25, 2016
Phi Đoàn 229 Lạc Long
Phi Đoàn 229
|
Không Đoàn 72
|
Sư Đoàn 6
|
Phi Ðoàn 229, Lạc Long được chính thức thành lập ngày 1 tháng 12 năm 1970, tại Pleiku trong chương trình phát triển và tối tân hóa Không Lực VNCH. Thật sự trước ngày thành lập, Bộ Tư Lệnh Không Quân đã bổ nhiệm một số hoa tiêu trực thăng vừa mới tốt nghiệp tại Hoa Kỳ ra thẳng Pleiku để tiếp tục huấn luyện hành quân do tiểu đoàn 52 không kỵ Hoa Kỳ tại phi trường Holloway đảm nhiệm. Số anh em đầu tiên nầy bay bổng cùng với hoa tiêu Mỹ tại căn cứ Holloway. Trung tá Nguyễn Văn Trang và Thiếu tá Lê Văn Bút là sĩ quan liên lạc KQ, phụ trách và theo dõi chương trình huấn luyện của Tiểu Đoàn 52 Không Kỵ Hoa Kỳ. Hoa tiêu trực thăng đợt 2 huấn luyện hành quân do Đại đội 192nd AHC(Assault Helicopter Co.) tại phi trường Phan Rang (VNAF Program Atch.) Sau thời gian độ ba tháng, các anh em hoa tiêu đầu tiên trên đã hoàn tất chương trình huấn luyện và trở về phi trường Cù Hanh để chính thức thành lập Phi Ðoàn 229 trực thăng. Các anh em Cơ phi, Xạ thủ, Path Finder, Văn thư... cũng lần lượt bổ xung đến Phi Ðoàn 229 và Bộ Chỉ Huy khung đầu tiên được bổ nhiệm gồm có:
Một chương trình huấn luyện xác định đẳng cấp và hành quân của Phi Ðoàn lại tiếp tục rầm rộ cho từng cá nhân và Phi Hành Ðoàn. Ngày đêm các máy bay UH-1 (Huey) thi nhau lên xuống tại phi trường Cù Hanh, Holloway và các vùng đồi núi phụ cận. Hợp đoàn đổ quân từ 4 chiếc đến hơn 10 chiếc được rèn luyện nhuần nhuyễn. Các cánh chim non giờ đây là các “Ðại Bàng” oai hùng xuất quân ra mặt trận. Mặc dù giai đoạn huấn luyện hành quân chưa chấm dứt, do tình hình chiến trường đầu năm 1971 rất là sôi động. Các “Pelican” (Sau đó chính thức lấy danh hiệu là Lạc Long) đã có mặt trên bầu trời Tây Nguyên, bắt đầu các phi vụ liên lạc hành quân, tải thương, tiếp tế,vv… Phi Ðoàn 229 vô cùng đau đớn để cái tang chung đầu tiên trong thời gian đó: anh Nguyễn văn Sơn bị bắn rớt, tử thương trong một phi vụ tản thương ở phía Tây phi trường Pleiku. Biến đau thương thành hành động, toàn thể anh em Lạc Long xung trận bằng tất cả khí thế quyết tâm rửa hận cho anh Sơn. Phi đoàn đã yểm trợ ngày đêm cho các cuộc hành quân vượt biên qua Lào và Kampuchia, cho mặt trận Dakto, Benhet, Ðức Cơ… Huấn luyện và trưởng thành trong chiến trận vô cùng ác liệt,chỉ chưa đầy 6 tháng sau ngày xuất quân, Phi Ðoàn 229 Lạc Long đã được tuyên dương trước Quân Ðội do thành tích chiến đấu, yểm trợ quân bạn đánh bại bộ đội chính quy Bắc Việt tại Căn Cứ 6 Hỏa Lực Dakto. Nhành dương liễu đầu tiên được trao gắn trên hiệu kỳ Phi Ðoàn 229. Qua một mùa hè đỏ lửa 1972 từ Tây Nguyên xuống duyên hải, từ Dakto, Kontum, Ðức Cơ, Ban Mê Thuột, Ðức Lập xuống Bồng Sơn, Tam Quan, Sa Huỳnh, An Lão vv… đâu đâu cũng có cánh chim Lạc Long 229. Phi Ðoàn 229 đã trở thành một đơn vị ưu tú tại Quân Ðoàn 2 và Quân Khu 2, đã đóng góp công lớn trên khắp các mặt trận giữ vững KonTum, tái chiếm Bồng Sơn, Tam Quan trong tay kẻ thù CSBV. Bằng những chiến tích đó, Phi đoàn 229 cũng đã phải trả một giá tương xứng bằng xương máu của hơn 30 anh em Lạc Long đã hy sinh tại mặt trận trong các phi vụ hành quân. Chúng ta ngậm ngùi thương tiếc các chiến hữu đã bỏ mình cho một cuộc chiến mà chúng ta chỉ biết hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc mến yêu! Bằng những bữa cơm gạo xấy chiên đạm bạc trên chiến trường, chúng ta đã kề vai, sát cánh chiến đấu không sờn lòng nhằm lý tưởng đánh bại bọn CS xâm lược để bảo vệ miền Nam tự do. Do nhu cầu công vụ, ngày 1-12-1972, Trung tá Ðoàn Văn Quang được bổ nhiệm chức vụ Phi Ðoàn Trưởng thay thế cho Trung tá Lê Văn Bút được vinh thăng trong chức vụ Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 72 Chiến Thuật. Và sau đó ngày 1-12-1974, Thiếu tá Phạm Công Cẩn đã thay thế Tr. tá Ðoàn Văn Quang (về tu nghiệp tại Bộ Tư Lệnh KQ), trong chức vụ Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn 229 cho tới ngày cuối cùng đã dẫn dắt toàn thể Lạc Long rời bỏ phi trường Pleiku trở về Nha Trang, Phan Rang, tham gia trận chiến cuối cùng ở mặt trận Phan Rang và rời bỏ căn cứ Bửu Sơn trong tầm đạn tấn công của CSBV để đưa toàn thể Phi Ðoàn 229 về phi trường 31 Cần Thơ. Ðể rồi theo vận nước đàn chim 229 đã phải tan bầy trong ngày 30-4-1975 đen tối. Tổng kết những thành tích, tuy mới thành lập từ cuối năm 70 nhưng Phi Ðoàn 229 Lạc Long đã sớm trở thành một đơn vị xuất sắc của KLVNCH. Một Phi Ðoàn ưu tú có mặt hầu hết trên khắp các mặt trận Quân Khu II. Phi đoàn 229 đã được tuyên dương trước Quân Ðội 3 lần và đã được trao dây biểu chương trước Quân Ðội. Ngày 30-4-1975 miền Nam mất. “Ðất nước còn, còn tất cả. Ðất nước mất…” người ra đi kẻ ở lại… Cuối cùng Phi Ðoàn 229 đã “được thành lập” ở Hoa Kỳ trong tình tương thân tương trợ để giúp đỡ đùm bọc các chiến hữu còn bị VC giam cầm trong các trại tù khắp miền đất nước. Trong thời chiến chúng ta cùng chiến đấu, sống chết trong lửa đạn. Ngày nay chúng ta cũng không bỏ anh em, không bỏ bạn bè. Chúng ta luôn luôn tưởng nhớ đến các cánh chim Lạc Long 229 đã nằm xuống cho lý tưởng Quốc Gia và chia xẻ niềm đau thương vô hạn với bao mất mát, xót xa của cha mẹ vợ con các anh em ấy. Gia Ðình Lạc Long 229 hãnh diện cho chiến tích của mình trong thời chiến và nghĩa cử cao quý của mình nơi hải ngoại.
KQ Lê Văn Bút. LL 01(Found by Huey1756)
PHI ĐOÀN 229 LẠC LONG
Lạc lõng bầu trời mây trắng bay Kiến-Hòa
|
Wednesday, September 21, 2016
Căn Cứ 60 Chiến Thuật KQ và PĐ 532
Gấu Đen 10Song song với kế hoạch bành trướng và hiện đại hóa Không Quân, Căn cứ 60 Chiến Thuật KQ được thành lập và đồn trú Phi Trường Phù Cát từ 1972. CC60CTKQ tùng thuộc SĐ II KQ thời gian đầu, sau được chuyển sang SĐ VI KQ Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang SĐT. Phi trường Phù Cát do Không Quân Hoa Kỳ xây cất với phi đạo 10 ngàn bộ (15/33) khả dụng cho hầu hết các phi cơ của Không Quân Hoa Kỳ như O2, F100, F105 và F104, Trực Thăng, Vận Tải v.v... Khi Căn Cứ được bàn giao lại cho KQVN, vị Căn Cứ Trưởng đầu tiên và duy nhất là NT Nguyễn Hồng Tuyền. Các Không Đoàn và Phòng sở chính của CC60CTKQ gồm có:
1- KĐ Yểm Cứ do Trung Tá Phương đảm trách (KĐT)
2- KĐ82CT do Trung Tá Nguyễn Văn Trương đảm trách (KĐT)
Phi Trường Phù Cát nằm cách Thành phố Quy Nhơn khoảng 15 dặm về hướng Tây bắc; Cách Quốc Lộ 1 khoảng 1 dặm về hướng Tây; Quốc Lộ 19 và BTL Sư Đoàn 22 BB nằm về phía Nam của phi trường. Phi trường Phù Cát được dựng lên giữa một thung lũng ba mặt là núi. Ngoài thành Phố Quy Nhơn ra, các địa danh quen thuộc chung quanh CC60CTKQ còn có các Quận lỵ như : Phù Cát, Phù Mỹ về hướng Đông; đèo Phù Củ hướng Đông Bắc; Tam Quan, Bồng Sơn, Hoài Ân, Hoài Nhơn phía Bắc; mật khu An Lão phía Tây Bắc; An Khê hướng Tây. Các địa danh kể trên là những vùng tiếp cận với phi trường Phù Cát. Những danh từ nóng bỏng này chắc chắn đã trở nên rất quen thuộc với bất cứ người Việt Nam nào chịu khó theo dõi tin tức Chiến sự hàng ngày trên báo chí cũng như TV/Radio trong thời điểm đó. Mật khu An Lão từng là chiến khu của Việt Minh trong thời chiến tranh chống Pháp. Tin đồn rằng phần lớn đàn ông và thanh niên thuộc các vùng phía bắc Bình Định đã tập kết hoặc vào bưng ... Điều đó không biết có chính xác không Nhưng trên thực tế, mặc dù là một căn cứ KQ, sinh hoạt hàng ngày của anh em chúng tôi từ khi mới tới cho đến lúc ra đi khi nào cũng phải đề cao cảnh giác và luôn luôn có cảm tưởng như đang sống giữa lòng địch ... Vì nằm giữa đống kiến lửa nên phi trường Phù Cát đã đóng một vị trí Chiến thuật rất quan trọng trong cố gắng ngăn chặn đường tiếp tế giao liên của VC từ vùng duyên hải Bình Định vào mật khu An Lão (Bộ chỉ huy Sư Đoàn 3 Sao Vàng VC) cũng như các cứ điểm của chúng chung quanh thị trấn cao nguyên Pleiku và Kontum. Phi Trường Phù Cát là cái gai hiểm hóc nằm chắn ngang cuống họng tiếp tế của VC nên chúng luôn luôn tìm cách cuối phá, pháo kích và tấn công phi trường ngay từ những ngày đầu; Kể cả một lần chúng đã liều lĩnh đánh đặc công và chiếm đồi 151 nằm sát vòng đai và trong hệ thống phòng thủ phi trường. Anh em KQ đã từng đáp Phù Cát thì chắc còn nhớ đồi 151 nằm sát phi đạo về hướng Tây. Đồi 151 do một Đại Đội ĐPQ đồn trú. Đồi 151 cũng là cao điểm quan sát các vùng chung quanh phi trường để báo động mỗi khi có pháo kích và chấm tọa độ phản pháo cho quân ban. Nhờ vậy mặc dù Phù Cát bị pháo kích như cơm bữa nhưng thường thường anh em chúng tôi vẫn có đủ thời giờ để sửa soạn tâm linh trước khi nghe đạn nổ. Lý do vì sợ bị phản pháo rất nhanh của Pháo Binh nên VC thường chỉ phóng vài trái 122 rồi bỏ chạy... Vì thế cho nên mặc dù anh em KQ Phù Cát bị ăn pháo rất thường nhưng những trận pháo kích cũng qua đi rất nhanh. Lúc đầu mỗi khi nghe còi báo động thì anh em chúng tôi còn chạy ra hầm trú ẩn, sau quen đi chỉ giật mình rồi ngủ tiếp... chúng tôi bảo nhau đạn không có mắt, rớt trúng ai ráng chịu ... Như đã trình bày ở phần trên, vì đồi 151 rất quan trọng trong hệ thống phòng thủ phi trường và các vùng lân cận nên đã một lần VC cả gan đánh Đặc công ban đêm và chiếm được đồi 151. Nhưng chúng chỉ giữ được ngọn đồi trong một thời gian rất ngắn rồi bị chúng ta đẩy lui. Ngày đó có lẽ là ngày bận rộn nhất của các lực lượng phòng thủ và anh em KQ Phù Cát. Vì bằng mọi giá, đồi 151 phải được chiếm lại cùng ngày. Nếu không thì chắc chắn đêm đó căn cứ Phù Cát đã bị thiệt hại rất nặng sau khi VC đã có đủ thời giờ và tầm quan sát chính xác để điều chỉnh tác xạ vào bộ chỉ huy, kho xăng, các Phòng sở, cư xá và quan trọng hơn cả là các ụ phi cơ (A37 thuộc PĐ 532, UH thuộc PĐ 243 và Chinook thuộc PĐ 241) v.v... Đó cũng là ngày mà anh em KQ đồn trú CC Phù Cát được xem cuốn phim chiến tranh sống động nhất trong đời quân ngũ. Được xem bạn mình đánh VC ngay trước mắt... Các phi vụ trực thăng (PĐ 243) tác xạ chính xác và đẹp mắt... A-37 Gấu Đen cất cánh phi đạo 15 lấy đủ cao độ, vòng lại thả bom đồi 151... Đáp phi đạo 33, giúp anh em vũ khí tái trang bị tàu rồi cất cánh đánh tiếp... Đồi 151 đã được chiếm lại cùng ngày. CC60CTKQ dưới sự lãnh đạo của NT Ng Hồng Tuyền và BCH căn cứ, anh em KQ và các lực lượng bạn đã chiến đấu anh dũng và căn cứ đã đứng vững cho tới tháng Ba 1975 khi bắt buộc phải bỏ căn cứ di tản chiến thuật về phương Nam, lúc đó Buôn Mê thuột đã mất, CCKQ Đà Nẵng và CCKQ Pleiku cũng đã di tản và trách nhiệm yểm trợ cuộc rút quân có một không hai theo Tỉnh Lộ 7 của bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng đã được coi như là chấm dứt... Phần tiếp theo xin các NT và anh em cho phép tôi được chia sẻ những hoạt động và kỷ niệm trong lúc đồn trú CC60CTKQ có liên hệ trực tiếp tới KĐ 82 CT nói chung và PĐ 532 nói riêng. Cùng xin thưa trước rằng cấu trúc và chi tiết của bài này hòan toàn đóng khung trong phạm vi hiểu biết và trí nhớ của kẻ hậu bối mà thôi và cũng đã hơn 35 năm rồi ... Nếu có sơ sót hoặc thiếu chính xác thì cũng xin các NT và anh em bổ túc thêm rồi cười trừ bỏ qua cho.
PĐ 532 Gấu ĐenPhi Đoàn 532 A-37 thuộc Không Đoàn 82 Chiến Thuật, Căn Cứ 60 Chiến Thuật Không Quân Phù Cát được thành lập năm 1972. Nhân viên của Phi Đoàn đến từ các phi đoàn A-37 516, 520, 524, 526 và 528 cùng với hai vị SQLL từ các trường bay bên Hoa Kỳ mãn nhiệm kỳ hồi hương. Danh Sách đầu tiên của Phi Đoàn gồm có 14 người :
Chỉ trong một thời gian ngắn, PĐ 532 được bổ sung thêm quân số rất hùng hậu, phần nhiều là các phi công vừa mãn khóa từ Hoa Kỳ và các anh em bên quan sát bay xuyên huấn A-37. Cho tới tháng 3/1975, PĐ 532 đã có tới gần 30 Pilot khả dụng hành quân.
Vùng Hoạt ĐộngNhư các NT và anh em đã biết, Sư Đoàn VI KQ có hai phi đoàn khu trục, PĐ 530 A1 (Thái Dương) đồn trú Căn Cứ Pleiku và PĐ 532 A-37 (Gấu Đen) đồn trú Căn Cứ Phù Cát. Cùng với Thái Dương, địa bàn hoạt động chính của Gấu Đen về phía Đông là vùng duyên hải phía Bắc Vùng II CT từ Tuy Hoà, Sông Cầu trở ra tới ranh giới Vùng I CT; về phía Nam từ Phú Bổn trở ra; về phía Tây và Tây Bắc có An Khê, Pleiku, Komtum và các tiền đồn như Plei Me, Lệ Minh, Chu Pao, Đức Cơ, Tân Cảnh, Võ Định, Dakto, Diên Bình, Gia Vực, đường mòn HCM v.v... Về phía Bắc và Đông Bắc có các địa danh nóng bỏng như Bồng Sơn, Tam Quan, Hoài Ân, Hoài Nhơn, đèo Phù Củ v.v. Nhiều khi anh em chúng tôi cũng được chỉ định bay những phi vụ xa hơn về phía Nam để yểm trợ các chiến trường như Gia Nghĩa (Quảng Đức), ngã ba giên giới, Muôn Mê Thuột, Hà Lan v.v... Phi Công PĐ 532 đã từng tham chiến tất cả các mặt trận tại các vùng kể trên, ngay cả chiếc cầu Diên Bình trên Quốc Lộ 14 phía Bắc Kon tum, mặc dù không có những cuộc không tập lớn như cuộc không tập của KĐ92CT Phan Rang với 40 A-37 gồm 3 phi đoàn, anh em Thái Dương và Gấu Đen cũng đã đánh chiếc cầu này nhiều lần bằng cả 3 phương pháp : Normal bomb run, BOBS và truy kích. Tuy nhiên như các NT và anh em phục vụ tại Vùng II đều biết, chiếc cầu này rất quan trọng đối với VC lại không lớn lắm nên dù bị đánh sập hoặc hư hại nặng, Công Binh VC đã sửa chữa ngay và cây cầu lại trở nên khả dụng chỉ một vài ngày sau đó, và quân ta lại đánh nữa ... Cái vòng luẩn quẩn đó cứ lập đi lập lại hoài cho đến ngày SĐ VI KQ di tản chiến thuật ... Trong khói lửa chiến tranh của Vùng II CT, PĐ 532 đã trưởng thành mau lẹ. Cho tới tháng Ba 1975, PĐ 532 đã có hơn 30 phi công khả dụng hành quân cộng thêm với số anh em A1 từ PĐ 530 bay xuyên huấn A-37. Cuối tháng Ba (1975) chúng tôi được lệnh di tản về Nha Trang. Vừa đáp xuống Nha Trang chỉ kịp đổ xăng thì được lệnh bay đi Phan Rang. Ngày hôm sau lại được lệnh về Tân Sơn Nhất... cuối cùng là Căn Cứ KQ Bình Thủy (Cần Thơ) rồi sát nhập KĐ74CT cho đến ngày thật sự tan hàng (30/04/1975). Một điều không biết có nên gọi là may mắn ... Trong gần 3 năm hoạt động trên hầu hết các chiến trường Tây Nguyên và Duyên hải Vùng II CT, PĐ 532 chỉ mất đi có hai phi công : Th/U Châu văn Yến gẫy cánh tại Chu Pao và Th/U Phạm Vàng tại An Khê. Âu đó cũng là sự hy sinh quá nhiều của anh chị em KQ nói riêng và tất cả các anh hùng liệt sĩ đã chiến đấu cho lý tưởng tự do nói chung. Họ và gia đình đã hy sinh quá nhiều cho một cuộc chiến đầy Chính Nghĩa nhưng chúng ta đã thua chỉ vì giới lãnh đạo quá kém cỏi, tham ô và đã để chúng ta hoàn toàn bị lệ thuộc vào bàn tay nhem nhuốc của các đế quốc tư bản cũng như Cộng sản; làm lợi cho những ý đồ riêng tư của họ... Điều đau lòng đó chắc chắn sẽ còn vương vấn mãi trong lòng anh chị em cựu Quân nhân chúng ta nói riêng và tất cả con dân Việt Nam nói chung; những con người mãi mãi yêu chuộng lý tưởng Độc Lập, Tự Do, Hoà Bình và Nhân Đạo. Gấu Đen 10
|
Thursday, September 15, 2016
Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân
(1931-2002)
SQ: 51/600.003
Sinh ngày 12-8-1931 tại Xả Bình Hòa, Tỉnh Gia Định
Huy Chương:
|
Chuẩn Tướng Phạm Ngọc SangMột Vì Sao Lặn - Hai Điều Trăn TrốiHạnh NhơnNV, Dec 17, 2002Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã ra người thiên cổ, nhưng sự qua đời của ông đã để lại cho chúng ta một ấn tượng và những hình ảnh bi hùng của một người lính cho tới chết vẫn trung thành với chất lính, vốn là những con người lúc chiến đấu trận mạc thì qủa cảm, tận tụy và trách nhiệm, khi sa cơ vẫn bảo vệ nhân cách của mình bằng cái chết. Sau đây là một bài viết về một vì sao đã lặn, nhưng chắc chắn sẽ cho chúng ta một tấm gương và niềm hãnh diện: Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã từ trần trong một ngày ảm đạm mùa đông năm 2002. Hội Ái Hữu Không Quân Miền Trung California đứng ra điều hành tang lễ. Từ trước đến nay chưa có đám tang nào có ý nghĩa tuyệt vời như thế. Lễ nghi quân cách trang trọng để tưởng niệm một vị tướng dầy đủ phong cách, thanh liêm, ôn hòa, đôn hậu, dũng cảm và tài năng. Việc tổ chức tang lễ này cho Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang người ta nhận thấy là vì tình thương yêu người niên trưởng đã một thời tận tụy hy sinh cho quê hương, cho chiến hữu hơn là tổ chức chiếu lệ, với hình thức phải có. Những anh chị em thuộc quân chủng Không Quân khắp nơi đến thăm viếng không khác gì một buổi họp đại hội Không Quân. Nhiều vị tướng lãnh và các quân nhân các cấp thuộc các quân, binh chủng không hẹn mà đến tham dự đám tang trong tinh thần huynh đệ chi binh rất đông đảọ ba ngày ở nhà quàn, cứ mười lăm phút là đổi phiên hai sĩ quan Không Quân trong lễ phục đứng gác cạnh quan tài, làm chúng ta nhớ lại quân phong, quân kỷ thời trước 1975. Chiều ngày thứ sáu (6-12-02) lễ phủ cờ VNCH được tổ chức rất trang nghiêm. Chuẩn Tướng Võ Dinh, nguyên Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân, đứng chủ lễ. Tướng Võ Dinh cũng là một vị tướng đầy đủ tư cách, uy nghi tương xứng với vị tướng quá cố. Sau đó là những lời phát biểu của các vị đại diện không ngớt lời ca ngợi và đầy thương tiếc... Chủ nhật 8-12-02 cử hành tang lễ. Khi đưa tiễn từ nhà quàn qua nhà thiêu, trên khung trời trong xanh có nắng ấm, ba chiếc máy bay cessna được điều động quần quanh vùng tang lễ làm ai cũng xúc động và lấy làm vinh dự. Dưới đất, các sĩ quan Không quân trong lễ phục đi hai bên quan tài và trên 500 người thuộc QLVNCH cùng đồng hương im lặng đưa tiễn trong ngậm ngùi, thương kính. Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã yên nghỉ, không còn đau đớn xác thân, vong linh đã bay xa lên cõi vĩnh hằng, thanh bình và an lạc. Đặc biệt hơn hết, ông đã để lại hai điều trăng trối làm chúng ta phải động tâm suy gẫm.
Điều Trăn Trối Thứ Nhấtthứ nhất là theo nguyện vọng của Ông, tất cả số tiền phúng điếu sẽ được giúp cho thương phế binh VNCH thiếu may mắn còn ở lại Việt Nam. Một vị tướng có tiếng là thương lính, cùng sống với lính. Nhất là trong cuối trận chiến tháng 4 năm 1975, ông đã cương quyết ở lại chiến đấu cùng anh em, cuối cùng bị sa lưới, lọt vào ổ phục kích của đối phương, để chịu đựng 17 năm trong lao tù Cộng Sản. Trong vòng lao lý, Tướng Phạm Ngọc Sang vẫn giữ đúng nhân cách làm cho các anh em tù nhân khác đều nể phục. Những năm sau cùng, vì sức khỏe quá hao mòn, ông phải mang những chứng bệnh trầm khạ cho đến khi ra khỏi tù, ông sống rất đạm bạc trong sự tận tình chăm sóc của Chuẩn Tướng phu nhân cùng các con hiếu thảọ đến Hoa Kỳ năm 1993, dù phải chống chỏi với bệnh hoạn, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang cùng phu nhân vẫn gần gũi với đàn em, bạn bè, không bỏ một buổi mời họp nào của anh em Không Quân, cũng như thường tham dự những ngày lễ lớn. Giai đoạn cuối đời, khi biết mình sắp từ giã cõi trần, ông đã dặn dò gia đình rằng: «Tất cả tiền phúng điếu dành để giúp cho các thương phế binh VNCH đang sống khó khăn ở quê nhà». Đáp ứng với thiện tâm của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, mọi người đã đóng góp một số tiền đáng kể, lên đến $10,040 (Mười ngàn không trăm bốn mươi mỹ kim). Số tiền đã trao cho Hội H.Ọ. Cứu-Trợ Thương Phế Binh & Cô Nhi Quả Phụ VNCH để làm theo nguyện vọng của vị Tướng nhân hậụ. Số tiền trên có thể cứu giúp cho gần 200 gia đình thương phế binh nghèo khó trong dịp Tết Quý Mùi 2003 năm naỵ. Chuẩn Tướng Sang, cho đến chết vẫn còn tưởng nhớ đến các chiến hữu đàn em trước kia đã hi sinh chiến đấu chống Cộng quân để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh cho đồng bào được sống trong no ấm, an lành, mà nay phải chịu cảnh đui mù, què cụt đang lầm than, cơ cực trải qua 28 năm trời nay trong nước. Nghĩa cử đó làm mọi người khâm phục.
Điều Trăn Trối Thứ HaiCàng ý nghĩa hơn nữạ gia tài của Chuẩn Tướng Sang để lại chỉ tóm gọn trong một lời kêu gọi: "Mọi người hãy thương yêu nhau." Chỉ có sáu chữ thôi nhưng đó là một lời kêu gọi thống thiết! Hãy yêu thương nhau như ông đã yêu thương tất cả mọi người bằng một tình thương chân thật. Chúng ta đáp ứng làm sao với lời trăng trối đó? Hãy tìm ra một phương cách dung hòa để cuộc sống của chúng ta được vui vẻ hơn, tốt đẹp hơn. Có lẽ Chuẩn Tướng Sang có nghe hoặc cảm thấy một vài bất đồng nào đó trong chúng ta chăng? Và ông đã đau lòng, ước ao được hàn gắn lại chăng? Nhung sức tàn, lực tận, ông không làm gì được nữa, chỉ biết lấy cái chết của mình để gởi thông điệp đó cho chúng ta Rằng, còn lại ở trên cõi đời này, hãy xích lại gần nhau, thương yêu nhau nhiều hơn, tha thứ cho nhau nhiều hơn, tha thứ cho nhau để san bằng những tị hiềm, dị biệt. Rồi từ đó, chúng ta sẽ tìm ra nhiều lối cư xử khác nữạ Nơi đất nước thứ hai này, xin hãy giữ gìn thể thống của dân tộc Việt Nam. Hãy làm gương cho những thế hệ tiếp nốị Tránh những việc làm không xứng đáng và những lời nói gieo đau khổ cho nhaụ «Một sự nhịn, chín sự lành». Nếu thương mình, thương người thì không làm hạ nhân phẩm của mình của người khác. Hãy bắt tay nhau làm lại nếu có những sai lầm, góp ý với nhau bằng những lời lẽ ôn hòa, tử tế, thanh nhã. Cần nhất là không cố chấp, không vì khác chính kiến mà khích bác nhau. Trong tinh thần hỉ xã, hãy tìm đến nhau xuề xòa, bắt tay nhau với nụ cười chân thật, tâm hồn chúng ta sẽ nhẹ nhàng, thanh thản. Chúng ta sẽ tạo cho đời bộ mặt dễ thương hơn, tốt đẹp, tươi mát hơn. Cộng đồng nhờ đó sẽ đoàn kết hơn. Tinh thần đoàn kết chúng ta vốn sẵn có, điển hình là trong tổ chức đại nhạc hội gây quỷ sậy dựng tượng đài Việt Mỹ vừa quạ Hàng hàng,lớp lớp đồng bào Việt Nam quy tụ lại để góp công, góp của ngoài ước lượng nhu cầu cần đến cho một đại cuộc đầy chính nghĩạ. Chỉ cần thiếu, cần bổ túc thêm một tình yêu thương giữa chúng ta, yêu thương và hỉ xã. « Hãy thương lấy nhau, hãy đùm bọc nhau». Tinh thần này do tổ tiên, cha ông ta để lạị. Muốn xây dựng một đất nước Việt Nam phú cường trong tự do, dân chủ , trước tiên chúng ta phải thương yêu, đùm bọc nhau đã. Tinh thần Phạm Ngọc Sang, lời di chúc của một đàn anh khả kính, đạo đức là một vang vọng cấp thiết trong mọi người con dân Việt hôm nay. Trong một tan hoang, điêu tàn ngôi nhà của Mẹ, xin những đứa con trong dòng máu Tiên Rồng hãy mau mau hồi tỉnh. Chúng ta, những người con ly hương vì Cộng Sản tham tàn, xin hãy ngồi lại bên nhau bên niềm thương yêu, tha thứ và nhất quyết phải làm một điều gì cho Tổ Quốc thôi điêu linh, cho dân tộc thôi đọa dày, cho quê hương thôi nhục nhằn nghèo khó.
Hạnh Nhơn
Về Với Không Gian Thân TìnhĐỗ Tiến ĐứcDec 12, 2002 Tướng Phạm Ngọc Sang đã mất rồi. Tin ông từ giã cõi đời không làm tôi ngạc nhiên hốt hoảng, nhưng đã khiến hồn tôi lịm đi, đầu óc tôi tê liệt, trống rỗng không biết bao nhiêu lâu. Mãi một lúc sau, tôi thấy hình ảnh Phạm Ngọc Sang đang dần dần hiện ra Đó là cảnh anh nằm bất động trên giường bệnh, phòng số 5, lầu 4 tại nhà thương Garden Grove Hospital. Đó là những lần gặp nhau của gia đình Cao Đẳng Quốc Phòng, anh ngồi lặng lẽ, nghe nhiều hơn nóị. Đó là lúc anh cùng một số bạn bè trong gia đình Cao Đẳng Quốc Phòng kéo lên nhà tôi chơi. Mới hai tuần trước, ông bà Nguyễn Xuân Vinh từ San Jose xuống Nam Cali có việc. Khi nghe anh Trần Dật báo tin anh Phạm Ngọc Sang đang nằm trong bệnh viện, e khó qua khỏi, ông bà vội ngỏ ý nhờ anh Dật đưa tới thăm ngay buổi chiều hôm thứ sáu đó. Vợ chồng tôi được anh Trần Dật gọi cùng đi nhân thể, vì anh Dật đã hẹn chở tôi đi thăm anh Sang vào cuối tuần. Cảm động nhất trong chuyến đi này là thái độ của bà Nguyễn Xuân Vinh. Bà đang bị đau chân, mỗi bước một khó khăn dù được chồng dìu đi dịu nhẹ. Thế mà khi tới bệnh viện, bà không chịu ngồi trong xe chờ chúng tôi lên thăm, mà bà nhất định đi cùng. Tôi nhớ bà nói: «Tôi phải lên thăm anh Sang chứ. Mà tôi còn muốn thăm chị Sang nữa, vì chúng tôi quen nhau từ lâu lắm, với lại để an ủi chị ấy vì chị ấy chịu nhiều bất hạnh.». Tướng Sang nằm trong căn phòng hẹp, giữa những chiếc máy bơm thuốc vào cơ thể. Giáo sư Vinh vội vã bước tới bên giường, nắm tay anh, sờ đầu, sờ mặt anh. Giọng ông trầm hẳn xuống : «Sang! tụi này tới thăm Sang! Sang có nhận ra không?» Tướng Sang như bừng tỉnh, đôi mắt mở ra ngu ngợ Trần Dật nói: «Thưa niên trưởng, có ông bà giáo sư Vinh, anh chị Đức tới thăm niên trưởng». Thấy tướng Sang vẫn bất động, anh Dật giải thích với chúng tôi: «Ông ấy không nói được nhưng vẫn nghe được. Ông ấy biết mình tới thăm». Tôi đứng lặng người nhìn Phạm Ngọc Sang và biết ngay rằng người bạn đồng môn trường Cao Đẳng Quốc Phòng này của tôi đang sống những ngày cuối cùng ở thế gian nàỵ Buổi tối hôm đó, khi về nhà tôi đã email báo tin cho anh em về tình hình Phạm Ngọc Sang. Tôi viết: Khi chúng tôi ra về, tôi tần ngần đứng lại, nói với ông Sang: «Sang ơi, mình về nhé. Nào, bắt tay nhau một cái đi». Và tôi thấy máy ngón tay của Sang nhúc nhích. Tôi vội nắm lấy những ngón tay ấỵ. Tôi có cảm tưởng những ngón tay ông ấy cũng đang muốn nắm lấy những ngón tay tôị..». Lập tức Đại tá Dương Hiếu Nghĩa từ bang Washington đã email lại cho tôi với lời khuyên đại ý: «Niên trưởng ráng lo giữ sức khoẻ, phải lạc quan để sống. Chúng ta sẽ trở về Sài gòn trong vinh quang vào năm 2005». Ông Nghĩa vẫn có thói quen gọi tôi là «niên trưởng» vì tôi học khoá 1, còn ông ấy học khoá 5 trường Cao Đẳng Quốc Phòng. Trên đường về từ bệnh viện, vợ chồng anh Trần Dật kể cho chúng tôi nghe về bệnh tình của tướng Sang. Ông đã ra vào bệnh viện nhiều lần trước khi rơi vào tình trạng nguy cấp hiện naỵ Trần Dật là sĩ quan cấp tá trong Không quân của Việt Nam cộng hòa, tuy không làm dưới quyền tướng Sang, nhưng anh nói : «Tôi rất kính phục tướng Sang. Ông là người có tư cách và nổi tiếng thương lính». Trần Dật kể rằng hơn chục năm trước, anh sáng lập nhóm «Không gian Thân tình» với mục đích kêu gọi những chiến hữu trong không quân ở hải ngoại tương trợ anh em ở quê nhà. Nhóm này có gửi tiền về giúp tướng Sang hai lần, một lần ông còn trong trại tù cải tạo và một lần ông đã được thả. Cả hai lần, tướng Sang đều viết thư trả lờị Trong thư ngày 27 tháng 2, 1991 viết từ Trại Thủ Đức, tướng Sang viết : «.. ..Qua ít hàng này, trước là để xác nhận món qùa nói trên, sau là để cảm ơn qúi anh, mặc dầu xa cách nhau 16 năm, đã còn nhớ đến tôị..». Trong thư ngày 23 tháng 2, 1992, tướng Sang báo tin ông được thả ngày 11 tháng 2. Ông viết : «Hôm 5 tháng 2, 1992 vì bị bệnh đường ruột nên tôi được Trại cho chuyển về Bệnh viện Chợ Rẫỵ Ngày tháng 2, Trại cử cán bộ xuống Chợ Rẫy lăn tay và làm thủ tục xuất trại cho tôị Hôm 18 tháng 2, tôi xuất viện về nhà».. .. Một đoạn khác ông viết : «Như thế là tôi đã ở trong các trại cải tạo từ 16 tháng 4, 1975 đến 12 tháng 2, 1992, còn ít ngày nữa là đủ 17 năm.. ..». Theo anh Trần Dật thì ngay khi tướng Sang đặt chân lên miền đất tự do, ông đã đích thân tới nhà anh nhân buổi sinh hoạt của Nhóm Không Gian Thân Tình để bầy tỏ lòng cảm ơn về những số tiền mà anh em đã gửi về quê nhà giúp đỡ ông. 17 năm trong tù cộng sản! Theo lời chị Sang thì chính vì cuộc sống tù đầy, bị hành hạ cả tâm hồn lẫn thể xác nên anh Sang bị bệnh ra máu đường ruột từ lúc anh ở trong trại tù Hà Nam Ninh tức trại tù Ba Sao nổi tiếng khắc nghiệt của chế độ cộng sản. Tướng Phạm Ngọc Sang sinh năm 1931 tại Gia Định, theo học trường Trung học Petrus Ký rồi bị động viên học khoá 1 Thủ Đức. Năm 1952 ông được cử sang Pháp học khoá 52F huấn luyện phi công Việt Nam đầu tiên. Sau khi mãn khoá, ông về nước và được giao trách nhiệm lái máy bay cho Tổng thống Ngô Đình Diệm từ năm 1955 cho tới ngày chấm dứt chế độ đệ nhất cộng hòạ Ít lâu sau ông được cử ra phục vụ tại trường sĩ quan phi hành Nha Trang. Mang lon Đại tá, ông theo học khóa 3 trường Cao Đẳng Quốc Phòng, rồi năm 1972 ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư đoàn 6 Không quân, đặt bản doanh ở Pleiku, trách nhiệm vùng trời quân đoàn 2. Một năm sau, ông được vinh thăng chuẩn tướng. Vào đầu tháng 3, 1975, khi cộng sản miền Bắc xua quân tấn công miền Nam, theo lệnh di tản của Tổng thống Thiệu, tướng Phạm Ngọc Sang đưa Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 15 th6ang 3, 1975 về tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22 tháng 3 ông được lệnh mang đơn vị về Phan Rang. Chưa kịp thích nghi với sinh hoạt địa phương, Sư đoàn 6 Không Quân đã phải đương đầu với cộng quân như một sư đoàn Bộ binh. Và trong cảnh quân ta từ quân đoàn 1 và quân đoàn 2 rút chạy trong hoảng loạn về phía Nam thì Sư đoàn 6 Không Quân của tướng Sang, từ ngày 1 tháng 4 đã trở thành đơn vị phòng thủ ở tuyến đầu, nắm giữ sinh mạng của thủ đô Sài gòn. Ngày 4 tháng 4, 1975 Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tới Phan Rang thiết lập bộ chỉ huy tiền phương, đã phải ở trong căn cứ của Sư Đoàn 6 Không quân, vì tình hình đã rất nguy ngập do Nha Trang, Cam Ranh đều đã rơi vào tay địch. Tỉnh trưởng Phan Rang cũng đã lặng lẽ bỏ chạỵ Tướng Sang viết : «Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 không quân. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không Quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp này». Theo hồi ký của tướng Sang thì ít ngày sau, tình hình Phan Rang đã vãn hồi trật tự. Quân cộng sản Bắc Việt trên đường vô miền Nam đã bị đánh bật trở lại với những thiệt hại nặng nề. Thế nhưng, bất ngờ vào ngày 12 tháng 4, 1954 lệnh từ Quân Đoàn 3 rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu Đoàn 5 Dù là những đơn vị đang cầm chân địch ở Phan Rang, để thay thế bằng những đơn vị què quặt là Sư đoàn 2 của tướng Trần Văn Nhựt vừa tháo chạy khỏi Quảng Ngãi và Liên đoàn 3 Biệt Động Quân đang thiếu hụt quân số trầm trọng. Cuối cùng thì trong ba vị tướng ở mặt trận Phan Trang, chỉ có tướng Nhựt là thoát kịp, còn hai tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang bị cộng sản bắt trên đường rút chạy vào sáng ngày 16 tháng 4, 1975. Trong hồi ký, tướng Sang thuật lại đoạn này như sau : «Trung tướng Nghi, ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Ngoài số quân nhân này bị họ đưa đến một địa điểm khác để giam giữ, riêng ba chúng tôi thì bị chúng dẫn ngược về Nha Trang sáng hôm saụ Trên đường tôi thấy rất nhiều xe thiết giáp, thiết vận xa và vận tải địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thểu, lang thang đi ngược trở về». Nhìn cảnh dân chúng ngơ ngác, thất thểu bên đường, còn mình thì bị địch bắt, tướng Sang ngđm ngùi phẫn hđn : «Tôi bỗng cảm thấy có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành». Cũng trong hồi ký «Trận Phan Rang» viết ngày 15 tháng 1, 2002 tướng Sang nhđn xét rằng «Phan Rang có vị trí rất thun lợi cho việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được». Thế nhưng Phan Rang vẫn mất thật mau lẹ, giống như nhiều nơi khác, bị mất từ lúc cộng quân chưa kịp di chuyển tớị Phải chi nếu Quân đoàn 3 đừng rút khỏi Phan Rang những đơn vị thiện chiến đang phòng thủ để thay thế bằng những đơn vị què quặt, tinh thần còn dao động, thì biết đâu Phan Rang chẳng đứng vững. Một sĩ quan Không Quân dưới quyền tướng Sang, khi nghe tin ông mất đã kể lại cho bạn bè nghe về lúc đóng quân ở Phan Rang, đã được Thiếu tá Nhẩy Dù Trương Dưỡng viết trong «Đời Chiến Binh» trang 194 đại ý như sau: «Lúc đó có chiếc C47 được trang bị máy móc để làm bộ chỉ huy trên không. Tướng Nghi bảo tướng Sang cùng sĩ quan tham mưu lên bay trên trời để tiếp vđn chỉ huỵ Tướng Sang trả lời rằng : Trung tướng ba sao ở dưới đất, cho tôi là tướng một sao lên trời và có thể bay khỏi đây bất cứ lúc nàọ Không, tôi sẽ ở bên Trung tướng, chịu chung sự nguy hiểm với Trung tướng». Dù không phải là người có trách nhiệm chính trong việc phòng thủ Phan Rang nhưng ông vẫn băn khoăn day dứt về sự thất thủ của Phan Rang. Sau này ông viết : «Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lý ra theo dự trù (của Hà Nội) chúng chỉ có thể tấn công vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng sau chiến thắng đã tuyên bố tại Cuba : «Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền Nam». Lời tuyên bố này chứng minh được việc chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòạ Việc mất Phan Rang qủa đúng là một tổn thất quá lớn lao cho công cuộc bảo vệ miền Nam. Tướng Phạm Ngọc Sang đã trải qua nhiều trại tù của cộng sản từ miền Bắc vào miền Nam. Hai trại tù ông ở lâu nhất là Hà Sơn Bình và Hà Nam Ninh. Cựu Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng đã có một thời gian ở chung trại tù với tướng Sang, nói rằng : «Ông Sang là một người rất có tư cách, rất đàng hoàng. Trong tù, ông ít nói, thường ngồi trầm ngâm như một con hổ nhớ rừng. Ông chỉ tâm sự với những người nào mà ông tin cậy». Nhà văn Nguyễn Vạn Hùng cũng từng ở tù chung với tướng Sang và cựu Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng, nói thêm rằng : «Tướng Sang được mọi người gồm tù và cán bộ cộng sản kính nể. Ông hay giúp đỡ và an ủi anh em trong tù gặp những hoàn cảnh khó khăn». Chị Sang cho biết chị biết anh bị bắt ở Phan Rang khi nghe tiếng anh nói trên đài phát thanh cộng sản. Chị tự an ủi mình và an ủi 5 con rằng, dù sao thì anh Sang còn sống, chị còn hy vọng có ngày gặp lạị Mãi tới năm 1979 chị mới nghe bạn bè cho tin anh Sang đang bị giam ở trại Hà Nam Ninh. Lđp tức chị phải mua «vé đi lại» lần mò ra Bắc kiếm tìm chồng. Khi tới trại tù, chúng chỉ cho chị được gặp anh tối đa 20 phút, và phải soạn sẵn những câu muốn hỏi anh để đưa cho chúng xem trước. Đã thế mà khi hai vợ chồng gặp nhau, tên cán bộ còn ngồi ngay bên cạnh để nghe và kiểm soát. Vào một lần đi thăm nuôi, anh Sang đã cho chị biết anh bị chứng ra máu đường ruột. Rồi vào ngày tết năm 1992, anh ở trại tù Z30D thì bệnh anh trở nặng có thể nguy đến tính mạng. Vì thế, chúng mới đưa anh vào Bệnh viện Chợ Rẫy, rồi hai tuần sau thì cho giấy tha anh ngay trên giường bệnh. Anh chị đã sang Mỹ năm 1993 theo diện đoàn tụ, do người con trai trưởng vượt biên năm 1989 bảo lãnh. Chị nói : «Tôi thương thằng cháu này lắm. Nó rất là có hiếu, nay đã bốn mươi mấy mà nhất định không chịu cưới vợ. Nó cứ nói nó còn phải lo cho cha mẹ cái đã. Thành thử cô bạn gái thương nó, chờ không được, đã đi lấy chồng, còn cháu vẫn ở không». Chị cũng cho tôi biết anh Sang sẽ được hỏa táng. Trong tang lễ của anh, có nhiều chiến hữu của anh từ các nơi về Nam Cali tiễn đưa anh lần cuốị Trong số những người bạn này có ông bà Nguyễn Xuân Vinh. Giáo sư Vinh nói về tướng Phạm Ngọc Sang như sau: «Chúng tôi nhap ngũ cùng một khoá, quen biết nhau đã trên nửa thế kỷ. Sang là một phi công điềm tĩnh, tài bạ Khi tôi làm tư lệnh Không Quân thỉnh thoảng chúng tôi có bay chung với nhaụ Anh ấy là một cấp chỉ huy gương mẫu và là một người bạn tốt». Thôi, xin tạm chia tay nhau, anh Sang.
Đỗ Tiến Đức
|