Monday, October 31, 2016

Một Góc Trời Pleiku Trong Thơ Võ Ý

KQ Nguyễn Hữu Thiện


Biển Hồ Pleiku

Trên Lý Tưởng Úc Châu số ra mắt (Xuân Canh Ngọ 1990), tôi được hân hạnh góp mặt với bài "Phi Vân - mây xám lưng trời", viết để hoài niệm hơn một ngàn ngày sống ở căn cứ Không Quân Pleiku.

Ba năm sau cùng của cuộc đời quân ngũ, tôi sống an nhàn - sáng đi chiều về, cơm nhà quà vợ - ở Bộ Chỉ Huy & Tiếp Vận Không Quân (Biên Hoà), được Ông Chỉ huy Trưởng Từ Văn Bê "cưng chiều", dù bộ râu mép chỉ vài sợi lơ thơ tơ liễu buông mành, cũng đuợc ông ưu ái cấp cho cái giấy phép để râu đầu tiên trong đơn vị. Nhưng tôi không bao giờ quên được Pleiku, nơi mà tôi đã tình nguyện tới và bị bắt buộc rời xa, nơi tôi đã sống những tháng ngày đẹp nhất ttrong đời quân ngũ, đã được hưởng chung niềm vui, chia sẻ nỗi buồn với những người Không Quân Biên Trấn - những người đã sống xứng đáng, đã chết anh hùng, để góp phần đem lại niềm tự hào chung cho quân chủng.

Trong số những người đã hy sinh, tôi viết nhiều về Cố Trung Tá Phạm Văn Thặng; trong những người còn sống, tôi có nhắc đến các niên trưởng Phùng Ngọc Ẩn, Ðỗ Trang Phúc, Nguyễn Văn Bá, các đàn anh Lê Bá Ðịnh, Lưu Ðức Thanh, Võ Ý...

Hôm nay, tôi cầm bút viết về Pleiku một lần nữa là vì anh Võ Ý (tôi gọi bằng "anh" với lòng trân quý), hay nói cho chính xác hơn là vì những bài thơ của anh Võ Ý làm ở Pleiku.

Ông cựu Phi đoàn Trưởng 118 Bắc Ðẩu hào hoa phong nhã này ngoài tài chỉ huy, bay bổng còn là một nhà thơ tài tử, điều đó không quân ai cũng biết (tôi nhấn mạnh hai chữ "tài tử" vì trong quân chủng ta không thiếu những nhà thơ chuyên nghiệp và có thể nổi tiếng hơn Võ Ý). Nói về thơ Võ Ý, theo tôi, những bài hay nhất của anh có lẽ là những bài làm trong thời gian sống ở Pleiku. Có thể vì Pleiku vừa là chốn "lưu đày quan bất mãn - lính ba gai" (lời Ông CHT Ðỗ Trang Phúc) - thê lương như cái tên Cù Hanh của Phi trường, vừa là nơi tung hoành của các chàng không quân có máu giang hồ phiêu bạt - thơ mộng như hai chữ Phi Vân trên cổng ra vào căn cứ, nên đã gợi hứng cho người đem hồn vào thơ.

Gần đây, đước tin anh Võ Ý tới Ca-li, tôi viết một lá thơ sang "trình diện", nôi dung thăm hỏi thì ít mà nhắc đến chuyện Pleiku thì nhiều - một cái tật của tôi khi "vớ" được dân Pleiku!... Trong thư hồi âm, anh Võ Ý cho biết anh rất xúc động khi tôi nhắc tới Pleiku. Tôi tin rằng khi viết như thế, anh cũng đoán biết tôi sẽ xúc động như thế nào khi được đọc những dòng chữ của một người anh cũ, cùng sống với nhau ở Pleiku hơn 26 năm về trước.

Xin mạn phép trích đăng một đoạn trong lá thư "cá nhân" ấy:

Anh Thiện thân mến,

...Tôi vô cùng xúc động, bất ngờ khi nhận được thư anh. Tôi đã đọc thư nhiều lần và một trời Pleiku sống rộn ràng trong trí nhớ của tôi.

Mỗi người ở Pleiku và yêu Pleiku theo cảm nhận riêng. Tôi cũng yêu Pleiku theo cách cảm nhận riêng của tôi. Pleiku là chốn tôi đã tình nguyện đến. Pleiku là nơi thách đố bổn phận và trách nhiệm của một quân nhân. Pleiku đối với tôi còn là một địa danh để tôi có thể thể hiện cung cách phục vụ quân chủng thân yêu của mình.

Ở đâu đó bàng bạc trong bức thư của anh, tôi thấy tấm lòng của anh hòa chung một nhịp với tôi: "tôi nhớ tới một ngàn ngày đói rách ở Pleiku hơn là ba năm phây phả ở Biên Hòa".

Trước năm 1975, trên tập san Lý Tưởng của Bộ Tư Lệnh, một cây viết kỳ cựu trong quân chủng - niên trưởng Nhân Hậu, nếu tôi nhớ không lầm - đã viết bài "Ðà Lạt - góc tường ký ức". Những ai đã từng ở Ðà Lạt một thời gian đủ dài cho một khóa học, đọc bài này đều thấm thía. Bởi vì mỗi lần trở lại Ðà Lạt, dù tình cờ hay có chủ đích, dù còn trai trẻ hay tóc đã điểm sương, người ta chỉ cần nghe tiếng thông reo, nhìn con dốc đá là bỗng nhớ dấu chân xưa, thương hình bóng cũ.

Với Không Quân, "góc tường ký ức" ấy là Pleiku. Muốn cho chính xác phải gọi là "góc trời". Ngược dòng lịch sử, góc trời ấy được đặt tên Căn Cứ 62 vào tháng 12 năm 1962. Những chàng không quân VNCH đầu tiên đặt chân đến phi trường Cù Hanh đèo heo hút gió này là các chàng phi công của phi đoàn quan sát 114 từ Ðà Nẵng vào (đầu năm 1963), kế tiếp là biệt đội khu trục A-1 từ Biên Hoà ra. Mùa Xuân 1964, căn cứ trở thành Không Ðoàn 62 Tác Chiến - biệt danh Không Ðoàn Biên Trấn - mà vị tư lệnh đầu tiên là Ông Minh Cồ.

Ðầu năm 1965, Không Ðoàn 62 dời về Nha Trang, Pleiku thu mình thành Căn Cứ Không Quân 92 bé nhỏ, có nhiệm vụ đón tiếp các biệt đội từ Sàigòn, Biên Hòa ra, Nha Trang lên, Ðà Nẵng vào... Ngoài ra, phi trường Cù Hanh - trên cao 2500 bộ - còn là mục tiêu của các phi vụ huấn luyện. Từ xa xa, thấy núi Hàm Rồng là biết sắp đáp Pleiku. Gọi là núi Hàm Rồng có lẽ vì đứng dưới đất mà nhìn thì trông giống như cái hàm của con Rồng (?). Nhưng ở trên trời nhìn xuống, nó giống hệt như cái "mu rùa" khổng lồ, lại còn thêm một đường trũng sâu nằm ngay chính giữa, trông giống như "thung lũng tình yêu" của ai đang tênh hênh mời gọi, nên đã được các chàng không quân đa tình và giàu óc tưởng tượng đặt cho một cái tên khác - rất đáng yêu, hơi khó nghe nhưng dễ nhớ.


Núi Hàm Rồng nhìn từ trên cao

Chắc hẳn ngày đó, Võ ý đã nhiều lần thấy núi Hàm Rồng, đáp xuống Cù Hanh, và để lại nửa hồn nơi phố Pleiku có người em "má đỏ môi hồng", nên anh đã viết:

Xưa trên đó

Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
Dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
Mê cho lắm cho tay dài với mộng
Mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền

Mưa thì sình bụi mù thay nắng gió
Gặp là vui cam khổ cũng cam đành
Vui cho quên đâu bằng xưa trên đó
Áo bay bay mờ ảo dấu phượng hoàng

Quên được thì quên nhớ thì ai nhớ
Quên cho rồi quyên gọi quốc từ đây
Nhớ đâu đâu lạ lùng trăng đêm đó
Tượng đá thần linh sao ta tỉnh say

Một dạo bay qua nhìn xưa trên đó
Ðồi như vương cây như vấn chân nàng
Phố cũng xưa và tim thì đau nhói
Quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn

Biển rộng có bờ, sông dài có ngọn
Ðã hẹn bên bờ đến ngọn hòa minh
Nhưng sông có khúc tình người vô hạn
Ðã hẹn thì chờ dâu biển chờ xem

Tôi vẫn đứng bên bờ giao ước đó
Ðợi chờ em từ cõi sắc không kia
Mây cứ bay bay hoài hương phấn cũ
Tôi còn đây em dễ có như xưa

Pleiku - 1967

Năm 1970, Căn Cứ Không Quân 92 trở thành Không Ðoàn Yểm Cứ Pleiku, kế tiếp Không Ðoàn 72 Chiến Thuật được thành lập, trực thuộc Sư Ðoàn 2 KQ cho tới khi trở thành SÐ6KQ vào năm 1972.

Trong số 4 phi đoàn của Liên Ðoàn 72 Tác Chiến - 530 khu trục, 118 quan sát, 229 và 235 trực thăng - tôi thân thiết với phi đoàn 530 của Ông Lê Bá Ðịnh hơn cả vì là ông xếp cũ của tôi (trưởng phòng CTCT - CC92KQ), nhưng thần tượng của tôi lại là vị phi đoàn trưởng (thứ hai?) của PÐ 118 Quan Sát, Thiếu Tá Võ Ý. Trời sinh ra anh với nhiều ưu đãi - đẹp trai, lắm tài, hào hoa phong nhã nên cũng bắt phải chịu một thiệt thòi: nghèo. Nghèo như cái tên "Võ Ý" của anh, cái tên chỉ có 3 mẫu tự, cái tên có lẽ ngắn nhất nhì trong lịch sử dân tộc từ thuở Vua Hùng Vương dựng nước. Không hiểu Võ Ý nghèo từ 3 đời hay mới nghèo gần đây thôi vì cái tật hào phóng kinh niên, mà chỉ biết anh là một trong những vị phi đoàn trưởng"đói" nhất mà tôi được biết. "Ðói" nhưng không "Rách". Vì thế lại càng "Ðói"!.

Nhưng một khi "người quân tử ăn chẳng cầu no", thì người nghệ sĩ lại càng nên... đói để cho văn chương thanh thoát, hồn thơ dào dạt. Ðó cũng chính là trường hợp của nhà thơ tài tử Võ Ý. Sau đây là một bài thơ của anh trong tập "Một Góc Pleiku".

Ở Pleiku

Bây giờ ta ở Pleiku
Thấy xanh núi đó thấy mù nầy sương
Núi xanh còn ngỡ phố phường
Mù sương ngán ngát dễ thường dễ khuây
Bây giờ ta nấu nung đây
Kêu thương con quốc đắng cay tấc lòng
Bụi hồng gió cuốn thinh không
Ta con chim nhỏ dám mong nỗi trời

Pleiku-1972

Trong việc phê bình sáng tác của người khác, đánh giá thơ có lẽ là việc khó khăn nhất. Bởi vì một bài thơ được xem là hay hoặc dở, được đón nhận hay hững hờ, ngoài trình độ thưởng thức tối thiểu, cũng còn tùy thuộc một phần vào việc đối tượng đó có cùng cảm quan, rung động với người làm thơ hay không. Vì thế, tôi không dám tự tiện ca tụng thơ Võ Ý. Nhưng ít nhất tôi phải thán phục tài "xuất khẩu thành thơ" của anh.

Người xưa "đi ba bước làm một bài thơ". Bài "Chào sáng" dưới đây, Võ Ý làm mà không bước. Ðó là một buổi sáng mùa Hè 72, Tây Nguyên tơi bời khói lửa. Hết mất Dark Seang tới Tân Cảnh, hết bỏ Chu Pao tới Charlie... Căn cứ Không Quân Pleiku nhỏ hẹp bỗng trở thành nơi dừng quân của những toán quân đi, và nơi nhận xác của những người về trong quan tài bọc kẽm.

Sáng sớm hôm ấy, các sĩ quan chỉ huy thuộc Liên Ðoàn 72 Tác Chiến trong đó có Ông Lê Bá Ðịnh, anh Võ Ý đích thân ra trạm hàng không quân sự để đôn đốc, lo liệu phi vụ đưa xác các tử sĩ về quê nhà an nghỉ. Cảnh tượng thê lương đập vào mắt đã khiến Võ Ý lặng người. Anh đưa tay lên chào, mắt nhạt nhòa, rồi xuất khẩu thành thơ - bài thơ mà với tôi tuy rất ngắn đã đủ nói lên tâm hồn anh, dù ý thơ đơn sơ, lời thơ mộc mạc, không màu mè, chải chuốt:

Chào Sáng

Chào anh buổi sáng Tây Nguyên
Tay ngang tầm mắt đầu nghiêng cúi chào
Quốc kỳ phủ xuống công lao
Có bi-đông nước dựa vào xác thân
Nghĩ anh đi cũng an phần
Xum xuê có trẻ bâng khuâng đứng ngồi
Chị thì rũ tóc mây môi
Chào anh buồi sáng mắt tôi nhạt nhòa.

Pleiku-1972

Ðó là Pleiku của Võ Ý, của tôi, và cũng là của cánh chim đầu đàn đã lìa tổ Trần Văn Minh, của các niên trưởng Phùng Ngọc Ẩn, Ðỗ Trang Phúc, Nguyễn Văn Bá, Lưu Ðức Thanh..., của những người hùng thiên cổ Thặng "Fulro", Hùng 530, Tuấn Râu 229...

Xin cảm ơn anh Võ Ý. Xin cảm ơn tất cả những người không quân còn yêu và còn nhớ Pleiku - góc trời kỷ niệm.

Nguyễn Hữu Thiện

Melbourne - 11/1998

Source: Hội Quán Phi Dũng



No comments:

Post a Comment